Dịch vụ công trực tuyến hướng đến phục vụ lợi ích của người dân và doanh nghiệp (07/01/2023)

Thời gian qua, việc ứng dụng Dịch vụ công trực tuyến là khâu quan trọng, then chốt trong tiến trình cải cách hành chính và triển khai Chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số. Hiện, đã có 4.290 dịch vụ công trực tuyến được cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (chiếm 66% số lượng thủ tục hành chính). Tuy nhiên số lượng dịch vụ công trực tuyến được sử dụng còn thấp ( chỉ khoảng 25,6%). Có thể nói, đưa thành công các dịch vụ công lên môi trường trực tuyến mới chỉ là tạo thêm một kênh để giải quyết các thủ tục hành chính. Điều quan trọng, các cơ quan, đơn vị cần có các giải pháp để người dân khai thác và sử dụng kênh giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến, từ đó mới phát huy hiệu quả của dịch vụ công trực tuyến. Đây cũng chính là chủ đề mà chúng tôi sẽ bàn luận trong Chương trình Đối thoại hôm nay với sự tham gia của hai vị khách mời : Bà Phạm Ngọc Thủy – Giám đốc điều hành Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ và ông Vũ Hoàng Liên – Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam.

Dịch vụ công trực tuyến hướng đến phục vụ lợi ích của người dân và doanh nghiệp (07/01/2023)

Dịch vụ công trực tuyến hướng đến phục vụ lợi ích của người dân và doanh nghiệp (07/01/2023)

Thời gian qua, việc ứng dụng Dịch vụ công trực tuyến là khâu quan trọng, then chốt trong tiến trình cải cách hành chính và triển khai Chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số. Hiện, đã có 4.290 dịch vụ công trực tuyến được cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (chiếm 66% số lượng thủ tục hành chính). Tuy nhiên số lượng dịch vụ công trực tuyến được sử dụng còn thấp ( chỉ khoảng 25,6%). Có thể nói, đưa thành công các dịch vụ công lên môi trường trực tuyến mới chỉ là tạo thêm một kênh để giải quyết các thủ tục hành chính. Điều quan trọng, các cơ quan, đơn vị cần có các giải pháp để người dân khai thác và sử dụng kênh giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến, từ đó mới phát huy hiệu quả của dịch vụ công trực tuyến. Đây cũng chính là chủ đề mà chúng tôi sẽ bàn luận trong Chương trình Đối thoại hôm nay với sự tham gia của hai vị khách mời : Bà Phạm Ngọc Thủy – Giám đốc điều hành Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ và ông Vũ Hoàng Liên – Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam.

Dịch vụ công trực tuyến hướng đến phục vụ lợi ích của người dân và doanh nghiệp (07/01/2023)

Thời gian qua, việc ứng dụng Dịch vụ công trực tuyến là khâu quan trọng, then chốt trong tiến trình cải cách hành chính và triển khai Chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số. Hiện, đã có 4.290 dịch vụ công trực tuyến được cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (chiếm 66% số lượng thủ tục hành chính). Tuy nhiên số lượng dịch vụ công trực tuyến được sử dụng còn thấp ( chỉ khoảng 25,6%). Có thể nói, đưa thành công các dịch vụ công lên môi trường trực tuyến mới chỉ là tạo thêm một kênh để giải quyết các thủ tục hành chính. Điều quan trọng, các cơ quan, đơn vị cần có các giải pháp để người dân khai thác và sử dụng kênh giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến, từ đó mới phát huy hiệu quả của dịch vụ công trực tuyến. Chương trình Đối thoại hôm nay bàn về chủ đề này với sự tham gia của hai vị khách mời là bà Phạm Ngọc Thủy, Giám đốc điều hành Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ và ông Vũ Hoàng Liên, Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam.

Dịch vụ công trực tuyến hướng đến phục vụ lợi ích của người dân và doanh nghiệp (07/01/2023)

Dịch vụ công trực tuyến hướng đến phục vụ lợi ích của người dân và doanh nghiệp (07/01/2023)

Thời gian qua, việc ứng dụng Dịch vụ công trực tuyến là khâu quan trọng, then chốt trong tiến trình cải cách hành chính và triển khai Chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số. Hiện, đã có 4.290 dịch vụ công trực tuyến được cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (chiếm 66% số lượng thủ tục hành chính). Tuy nhiên số lượng dịch vụ công trực tuyến được sử dụng còn thấp ( chỉ khoảng 25,6%). Có thể nói, đưa thành công các dịch vụ công lên môi trường trực tuyến mới chỉ là tạo thêm một kênh để giải quyết các thủ tục hành chính. Điều quan trọng, các cơ quan, đơn vị cần có các giải pháp để người dân khai thác và sử dụng kênh giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến, từ đó mới phát huy hiệu quả của dịch vụ công trực tuyến. Chương trình Đối thoại hôm nay bàn về chủ đề này với sự tham gia của hai vị khách mời là bà Phạm Ngọc Thủy, Giám đốc điều hành Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ và ông Vũ Hoàng Liên, Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam.

Cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật, gỡ khó cho doanh nghiệp trong bối cảnh dịch covid19 (25/12/2021)

Cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật, gỡ khó cho doanh nghiệp trong bối cảnh dịch covid19 (25/12/2021)

Tháng 8 năm nay, khi dịch covid19 diễn biến phức tạp, hàng loạt doanh nghiệp không thể đảm bảo tiến độ giao hàng do những quy định trong việc xin cấp giấy đi đường, kiểm tra mã QR... Sau đó, mặc dù Chính phủ đã nhiều lần yêu cầu phải thông suốt vận chuyển hàng hoá, song nhiều địa phương vẫn tiếp tục quy định các giấy phép con, “làm khó” doanh nghiệp. Còn thời điểm này, khi dịch covid19 cơ bản được kiểm soát, thì các loại chi phí có thể phát sinh từ quy định pháp luật như chi phí thủ tục hành chính, chi phí cơ hội và chi phí không chính thức khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khi phục hồi sản xuất. Vậy, cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho người dân và doanh nghiệp như thế nào để thực sự gỡ khó cho doanh nghiệp?

Nhà trường thời COVID: Thích ứng để đổi mới (18/12/2021)

Gần hai năm qua, trải qua bốn “làn sóng” của đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành giáo dục với nhiều khó khăn, thách thức. Học sinh và giáo viên cả nước bước vào năm học 2021-2022 bằng lễ khai giảng trực tuyến – “có khoảng cách nhưng không xa cách”, bắt đầu những giờ học online để thích ứng với tình hình dịch bệnh – “dừng đến trường nhưng không dừng việc việc học”. Cả xã hội thích ứng để bình thường mới, cả ngành giáo dục cũng thích ứng để linh hoạt đổi mới dạy và học. Nhìn lại năm 2021, với giáo dục là gần một học kỳ I của năm học 2021-2022 trong bối cảnh còn khó khăn, kỳ vọng thì lớn, nhiệm vụ lại nặng nề, các nhà trường cần thích ứng ra sao để biến khó khăn, thách thức thành động lực để đổi mới, đạt được “mục tiêu kép” – an toàn phòng dịch và kế hoạch năm học không bị “đứt gẫy” đảm bảo chất lượng giáo dục? Chương trình Đối thoại, chúng tôi bàn nội dung: “Nhà trường thời COVID: Thích ứng để đổi mới”. Chương trình có sự tham gia bàn luận của Chuyên gia giáo dục Đặng Tự Ân, Nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học, Giám đốc Quỹ Đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam và ông Hà Xuân Nhâm, Hiệu trưởng Trường THPT Phan Huy Chú, Hà Nội.

Nhà trường thời COVID: Thích ứng để đổi mới (18/12/2021)

Nhà trường thời COVID: Thích ứng để đổi mới (18/12/2021)

Gần hai năm qua, trải qua bốn “làn sóng” của đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành giáo dục với nhiều khó khăn, thách thức. Học sinh và giáo viên cả nước bước vào năm học 2021-2022 bằng lễ khai giảng trực tuyến – “có khoảng cách nhưng không xa cách”, bắt đầu những giờ học online để thích ứng với tình hình dịch bệnh – “dừng đến trường nhưng không dừng việc việc học”. Cả xã hội thích ứng để bình thường mới, cả ngành giáo dục cũng thích ứng để linh hoạt đổi mới dạy và học. Nhìn lại năm 2021, với giáo dục là gần một học kỳ I của năm học 2021-2022 trong bối cảnh còn khó khăn, kỳ vọng thì lớn, nhiệm vụ lại nặng nề, các nhà trường cần thích ứng ra sao để biến khó khăn, thách thức thành động lực để đổi mới, đạt được “mục tiêu kép” – an toàn phòng dịch và kế hoạch năm học không bị “đứt gẫy” đảm bảo chất lượng giáo dục? Chương trình Đối thoại, chúng tôi bàn nội dung: “Nhà trường thời COVID: Thích ứng để đổi mới”. Chương trình có sự tham gia bàn luận của Chuyên gia giáo dục Đặng Tự Ân, Nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học, Giám đốc Quỹ Đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam và ông Hà Xuân Nhâm, Hiệu trưởng Trường THPT Phan Huy Chú, Hà Nội.

Cắt giảm, đơn giản hoá điều kiện kinh doanh theo Nghị quyết 68 của Chính phủ(11/12/2021)

Tháng 5/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68 về chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 – 2025, trong đó đặt ra mục tiêu cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định, cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp. Đồng thời, Nghị quyết 68 nêu rõ phải cắt giảm các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, không phân biệt đó là thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh hay thủ tục kiểm tra chuyên ngành, nếu gây khó khăn cho doanh nghiệp sẽ bị bãi bỏ. Đây là điểm khác biệt căn bản so với các nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh trước đó. Rõ ràng, năm 2021 và năm 2022 sẽ là những năm bản lề để thực hiện mục tiêu đề ra của nghị quyết 68. Con số 20% cắt giảm trong quy định của pháp luật, cũng như chi phí cho doanh nghiệp – sẽ là ít nếu như tất cả đều vào guồng với cùng một mục đích vì doanh nghiệp, vì nhân dân, nhưng cũng sẽ là nhiều và thách thức nếu như khâu thực thi chính sách còn khoảng cách xa vời với chính sách, và các bộ ngành, địa phương vẫn giữ lợi ích của riêng mình. Chương trình Đối thoại hôm nay sẽ bàn sâu hơn câu chuyện: Nỗ lực cho mục tiêu cắt giảm 20% chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp với sự tham gia của hai vị khách mời là Tiến sỹ Tô Hoài Nam- Phó Chủ tịch thường trực Kiêm Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam và chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Cắt giảm, đơn giản hoá điều kiện kinh doanh theo Nghị quyết 68 của Chính phủ(11/12/2021)

Cắt giảm, đơn giản hoá điều kiện kinh doanh theo Nghị quyết 68 của Chính phủ(11/12/2021)

Tháng 5/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68 về chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 – 2025, trong đó đặt ra mục tiêu cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định, cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp. Đồng thời, Nghị quyết 68 nêu rõ phải cắt giảm các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, không phân biệt đó là thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh hay thủ tục kiểm tra chuyên ngành, nếu gây khó khăn cho doanh nghiệp sẽ bị bãi bỏ. Đây là điểm khác biệt căn bản so với các nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh trước đó. Rõ ràng, năm 2021 và năm 2022 sẽ là những năm bản lề để thực hiện mục tiêu đề ra của nghị quyết 68. Con số 20% cắt giảm trong quy định của pháp luật, cũng như chi phí cho doanh nghiệp – sẽ là ít nếu như tất cả đều vào guồng với cùng một mục đích vì doanh nghiệp, vì nhân dân, nhưng cũng sẽ là nhiều và thách thức nếu như khâu thực thi chính sách còn khoảng cách xa vời với chính sách, và các bộ ngành, địa phương vẫn giữ lợi ích của riêng mình. Chương trình Đối thoại hôm nay sẽ bàn sâu hơn câu chuyện: Nỗ lực cho mục tiêu cắt giảm 20% chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp với sự tham gia của hai vị khách mời là Tiến sỹ Tô Hoài Nam- Phó Chủ tịch thường trực Kiêm Tổng thư ký Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam và chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Nợ đọng, trốn đóng bảo hiểm xã hội và các giải pháp khắc phục (27/11/2021)

Nợ đọng, trốn đóng bảo hiểm xã hội và các giải pháp khắc phục (27/11/2021)

Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Vì thế việc thực hiện các quy định của Luật bảo hiểm xã hội có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Vậy nhưng trong thời gian qua, tình trạng nợ đọng, trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của các đơn vị sử dụng lao động có chiều hướng gia tăng, không chỉ gây khó khăn cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Vậy cần giải pháp gì để khắc phục tình trạng này?

Cần chăm sóc sức khỏe tâm thần nhiều hơn cho nạn nhân da cam dioxin trong bối cảnh COVID-19 (23/11/2021)

Cần chăm sóc sức khỏe tâm thần nhiều hơn cho nạn nhân da cam dioxin trong bối cảnh COVID-19 (23/11/2021)

Không chỉ ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, thu nhập, dịch bệnh Covid 19 kéo dài đã khiến những người yếu thế như người nghèo, người khuyết tật, đặc biệt là nạn nhân da cam, còn chịu áp lực lớn về tâm lý do rất dễ bị tổn thương. Dịp kỷ niệm 60 năm nạn nhân da cam/dioxin Việt Nam mới đây, Chủ tịch nước đã gửi thư cho các nạn nhân và kêu gọi toàn xã hội chăm lo cho các nạn nhân nhiều hơn trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19. Vậy cần quan tâm chăm sóc sức khỏe tinh thần cho nạn nhân da cam/dioxin như thế nào trong bối cảnh dịch bệnh?. Trong chương trình hôm nay, chúng tôi mời 2 vị khách mời đến từ Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế và Hội Nạn nhân da cam Dioxin Việt Nam tham gia trao đổi về nội dung này với sự tham gia của 2 khách mời là Trung tướng, PGS.TS Đặng Nam Điền, Phó Chủ tịch - Tổng Thư ký Hội nhạn nhân da cam/dioxin Việt Nam và TS, BS Trần Ngọc Nghị, Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế

Hỗ trợ giáo viên mầm non khó khăn vì dịch COVID-19: Cần kịp thời, đúng đối tượng (20/11/2021)

Hỗ trợ giáo viên mầm non khó khăn vì dịch COVID-19: Cần kịp thời, đúng đối tượng (20/11/2021)

Trong một báo cáo nghiên cứu của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) năm 2020, có ít nhất 40 triệu trẻ em trên toàn thế giới đã lỡ mất cơ hội tham gia giáo dục mầm non trong giai đoạn phát triển quan trọng do các cơ sở chăm sóc trẻ em và giáo dục mầm non phải đóng cửa vì đại dịch COVID-19. Tại Việt Nam, giáo dục là một trong những ngành chịu tác động, ảnh hưởng nhiều nhất của đại dịch COVID-19, nhất là cấp học mầm non. Đóng cửa liên tục nhiều tháng liền, lại phải gánh các khoản chi phí lớn khiến nhiều trường mầm non tư thục rơi vào cảnh kiệt quệ, phá sản… Giáo viên mầm non được đánh giá là có công việc vất vả, làm nhiều thời gian nhưng thu nhập thấp, nay đời sống càng khó khăn hơn khi bị chấm dứt hợp đồng, nghỉ việc không lương. Trước tình trạng này, rất cần có những cơ chế, chính sách hỗ trợ dài hạn để đảm bảo chất lượng giáo dục của bậc học này.

Cơ chế “đột phá” nào giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ-đổi mới sáng tạo? (13/11/2021)

Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố cho thấy, trong hai năm 2018 và 2019, Việt Nam tăng 10 bậc và đứng thứ 67 trên thế giới. Còn trong bảng xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2021 do Tổ chức Sở hữu trí tuệ công bố: Việt Nam vẫn duy trì xếp hạng trong nhóm 45 quốc gia dẫn đầu toàn cầu- xếp thứ 44/132 quốc gia và nền kinh tế, và trong nhóm các quốc gia có cùng mức thu nhập, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí đứng đầu. Đây là những thành tựu đáng ghi nhận cho thấy chúng ta đã nhận thức được tầm quan trong của đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển của đất nước. Tuy vậy, trong các báo cáo về KHCN và đổi mới sáng tạo, đổi mới công nghệ ở Việt Nam được công bố mới đây, các chuyên gia nhận định: trong giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế để tiến tới trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, đòi hỏi chúng ta phải tập trung nhiều hơn vào việc nâng cao năng suất lao động thông qua đổi mới công nghệ và sáng tạo công nghệ. Nhưng cũng có một thực tế là hiện 90% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa- tiềm lực còn nhiều hạn chế thì việc đầu tư cho đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo vẫn còn gặp nhiều khó khăn, rào cản. Cơ chế “đột phá” nào giúp doanh nghiệp Việt Nam đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo? Đây sẽ là nội dung được chúng tôi đi sâu phân tích và bàn luận trong chương trình ĐỐI THOẠI hôm nay, với sự tham gia của các khách mời. - Ông Nguyễn Đức Hoàng- Phó cục trưởng Cục Ứng dụng và phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và công nghệ). - Tiến sĩ Phạm Thu Hiền– Chuyên gia Mạng lưới nghiên cứu Data61, trực thuộc Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ của Khối thịnh vượng chung Australia. - Ông Trương Vĩnh Thành- Phó tổng giám đốc Tập đoàn Sao Mai (An Giang).

Cơ chế “đột phá” nào giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ-đổi mới sáng tạo? (13/11/2021)

Cơ chế “đột phá” nào giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ-đổi mới sáng tạo? (13/11/2021)

Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) do Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố cho thấy, trong hai năm 2018 và 2019, Việt Nam tăng 10 bậc và đứng thứ 67 trên thế giới. Còn trong bảng xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2021 do Tổ chức Sở hữu trí tuệ công bố: Việt Nam vẫn duy trì xếp hạng trong nhóm 45 quốc gia dẫn đầu toàn cầu- xếp thứ 44/132 quốc gia và nền kinh tế, và trong nhóm các quốc gia có cùng mức thu nhập, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí đứng đầu. Đây là những thành tựu đáng ghi nhận cho thấy chúng ta đã nhận thức được tầm quan trong của đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển của đất nước. Tuy vậy, trong các báo cáo về KHCN và đổi mới sáng tạo, đổi mới công nghệ ở Việt Nam được công bố mới đây, các chuyên gia nhận định: trong giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế để tiến tới trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, đòi hỏi chúng ta phải tập trung nhiều hơn vào việc nâng cao năng suất lao động thông qua đổi mới công nghệ và sáng tạo công nghệ. Nhưng cũng có một thực tế là hiện 90% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa- tiềm lực còn nhiều hạn chế thì việc đầu tư cho đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo vẫn còn gặp nhiều khó khăn, rào cản. Cơ chế “đột phá” nào giúp doanh nghiệp Việt Nam đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo? Đây sẽ là nội dung được chúng tôi đi sâu phân tích và bàn luận trong chương trình ĐỐI THOẠI hôm nay, với sự tham gia của các khách mời. - Ông Nguyễn Đức Hoàng- Phó cục trưởng Cục Ứng dụng và phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và công nghệ). - Tiến sĩ Phạm Thu Hiền– Chuyên gia Mạng lưới nghiên cứu Data61, trực thuộc Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ của Khối thịnh vượng chung Australia. - Ông Trương Vĩnh Thành- Phó tổng giám đốc Tập đoàn Sao Mai (An Giang).

Bảo hiểm xã hội- Trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội và khó khăn của doanh nghiệp trong dịch Covid 19 (06/11/2021)

Bảo hiểm xã hội có vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội sẽ đảm bảo quyền lợi cho người lao động trên cở sở đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Theo đó thì phải có đóng góp mới có hưởng và không đóng góp thì không được hưởng. Mối quan hệ giữa mức đóng và quyền lợi được hưởng lại chịu sự ràng buộc của các nguyên tắc như: Nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro (thể hiện ở chính sách BHYT, chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp…), nguyên tắc tương quan giữa đóng và hưởng có sự can thiệp nhờ cách thức phân phối lại mang tính xã hội (chế độ hưu trí, tử tuất). Chương trình đối thoại hôm nay chúng tôi sẽ bàn cụ thể hơn về vai trò của Bảo hiểm xã hội với hệ thống an sinh xã hội- và những nỗi khó của doanh nghiệp tham gia Bảo hiểm xã hội trong thời kỳ dịch Covid 19, với sự tham gia của ông Tô Hoài Nam- Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam và bà Phạm Nguyên Cường- Chuyên gia về an sinh xã hội

Bảo hiểm xã hội- Trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội và khó khăn của doanh nghiệp trong dịch Covid 19 (06/11/2021)

Bảo hiểm xã hội- Trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội và khó khăn của doanh nghiệp trong dịch Covid 19 (06/11/2021)

Bảo hiểm xã hội có vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội sẽ đảm bảo quyền lợi cho người lao động trên cở sở đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Theo đó thì phải có đóng góp mới có hưởng và không đóng góp thì không được hưởng. Mối quan hệ giữa mức đóng và quyền lợi được hưởng lại chịu sự ràng buộc của các nguyên tắc như: Nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro (thể hiện ở chính sách BHYT, chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp…), nguyên tắc tương quan giữa đóng và hưởng có sự can thiệp nhờ cách thức phân phối lại mang tính xã hội (chế độ hưu trí, tử tuất). Chương trình đối thoại hôm nay chúng tôi sẽ bàn cụ thể hơn về vai trò của Bảo hiểm xã hội với hệ thống an sinh xã hội- và những nỗi khó của doanh nghiệp tham gia Bảo hiểm xã hội trong thời kỳ dịch Covid 19, với sự tham gia của ông Tô Hoài Nam- Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam và bà Phạm Nguyên Cường- Chuyên gia về an sinh xã hội