Chuyên gia Nhật Bản khuyến nghị: Phòng chống thiên tai cần giả định những điều “ngoài dự tính”
VOV1 - Thiên tai không chỉ gây tổn thất về người và tài sản, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc nâng cao năng lực phòng ngừa, ứng phó và phục hồi sau thiên tai một cách hiệu quả và bền vững hơn.

Nhật Bản là quốc gia thường xuyên hứng chịu các loại hình thiên tai, trong đó có lũ lụt, nhưng lại được biết đến với hệ thống phòng chống thiên tai hiệu quả hàng đầu thế giới. Ông Moriyasu Kunihiro - Chuyên gia của JICA - Cố vấn về quản lý rủi ro thiên tai Cục quản lý đê điều và phòng chống thiên tai (Bộ Nông Nghiệp và Môi trường) chia sẻ kinh nghiệm của Nhật Bản trong ứng phó và giảm nhẹ rủi ro thiên tai.  

PV: Nhật Bản là quốc gia thường xuyên phải đối mặt với thiên tai, trong đó có lũ lụt. Ông có thể chia sẻ những biện pháp chủ chốt hoặc mô hình hiệu quả mà chính phủ và người dân Nhật Bản đã triển khai để giảm thiểu thiệt hại trong các trận lũ lớn?

Ông Moriyasu Kunihiro: Như quý vị đều biết, cũng giống như Việt Nam, Nhật Bản là quốc gia thường xuyên hứng chịu nhiều thiên tai. Gần đây, số lượng mưa lớn trong thời gian ngắn hoặc mưa cục bộ gia tăng, khiến thiệt hại do lũ lụt và sạt lở đất ngày càng nghiêm trọng và thường xuyên hơn. Vì vậy, công tác phòng chống lũ lụt vẫn là một thách thức lớn đối với Nhật Bản hiện nay.

Về kinh nghiệm của Nhật Bản, sau mỗi thảm họa quy mô lớn, chúng tôi đều rút ra bài học để cải thiện hệ thống pháp luật, tiêu chuẩn kỹ thuật, đẩy mạnh đầu tư cho hạ tầng phòng chống thiên tai, cũng như phát triển công nghệ quan trắc lượng mưa và dự báo lũ lụt - tức là kết hợp đồng thời cả giải pháp “cứng” và “mềm”.

Trong tư duy phòng chống thiên tai, chúng tôi chia thành bốn giai đoạn:
Thứ nhất là Phòng ngừa và giảm thiểu thiệt hại trước khi xảy ra thiên tai thông qua xây dựng hạ tầng; Thứ hai là Chuẩn bị sẵn sàng, như tổ chức diễn tập, cung cấp bản đồ nguy cơ cho người dân; Thứ ba là ứng phó khẩn cấp sau khi xảy ra thiên tai, tức là cứu hộ, hướng dẫn sơ tán; Thứ tư là phục hồi, tái thiết cơ sở hạ tầng và nhà ở.

Trong bốn giai đoạn này, Nhật Bản đặc biệt coi trọng giai đoạn đầu tiên - phòng ngừa và giảm thiểu thiệt hại - coi đây là trọng tâm của phòng chống thiên tai, và luôn lập kế hoạch đầu tư dài hạn. Có thời điểm, Nhật Bản dành tới 5–8% ngân sách quốc gia cho công tác này để xây dựng các đập, hệ thống đê điều. Nhờ đó, thiệt hại do lũ lụt đã giảm đáng kể.

Tuy nhiên, xây dựng hạ tầng cần nhiều thời gian, và ngay cả khi hoàn thiện, vẫn có khả năng xảy ra thiên tai vượt quá năng lực thiết kế của công trình. Nói cách khác, chỉ dựa vào hạ tầng thôi thì không thể đưa số người thiệt mạng về con số 0. Vì vậy, Nhật Bản đã đẩy mạnh cung cấp bản đồ nguy cơ cho người dân, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm để hỗ trợ sơ tán kịp thời.

Đặc điểm của hệ thống cảnh báo sớm ở Nhật Bản là tính liên kết chặt chẽ giữa các khâu - từ quan trắc, dự báo, truyền tin cảnh báo, cho đến hành động sơ tán của người dân. Chính quyền địa phương và cộng đồng cư dân luôn phối hợp chặt chẽ, tổ chức diễn tập thường xuyên để khi có cảnh báo, mọi người có thể ngay lập tức di chuyển đến nơi an toàn.

Một điểm quan trọng khác trong văn hóa phòng chống thiên tai của Nhật Bản là luôn giả định cả những điều “ngoài dự tính”. Bởi vì những thảm họa chưa từng có trong tiền lệ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó, mỗi cá nhân phải suy nghĩ và hành động để tự bảo vệ mình, không phó mặc sinh mệnh cho người khác.

PV: Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, ông có những khuyến nghị cụ thể nào dành cho Việt Nam - đặc biệt trong bối cảnh các tỉnh miền Bắc vừa chịu thiệt hại nặng nề do ảnh hưởng của bão số 10 và số 11 gây mưa lũ lớn chưa từng có?

Ông Moriyasu Kunihiro: Ở đây, tôi xin phép không nêu các đề xuất cụ thể, mà chỉ chia sẻ một vài điểm quan trọng rút ra từ kinh nghiệm của Nhật Bản.

Thứ nhất, cần tăng cường đầu tư có kế hoạch cho phòng chống thiên tai. Đây không chỉ là một nhiệm vụ nhân đạo, mà còn là một phần trong chiến lược phát triển quốc gia. Việc đầu tư sớm và có kế hoạch vào công tác phòng ngừa là vô cùng cần thiết. Tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về Giảm nhẹ Thiên tai năm 2015, khái niệm “Build Back Better – Tái thiết tốt hơn” được nhấn mạnh, khuyến khích các quốc gia đầu tư trước vào phòng ngừa thay vì chỉ khắc phục sau thảm họa. Chúng ta nên coi phòng chống thiên tai là khoản đầu tư cho tương lai, chứ không phải là chi phí.

Thứ hai, cần đẩy nhanh các biện pháp kiểm soát lũ ở đô thị. Việt Nam là quốc gia đang phát triển nhanh, tốc độ đô thị hóa cao, vì vậy việc tăng cường hệ thống thoát nước và quy hoạch sử dụng đất hợp lý là rất cấp thiết. Nhật Bản từng trải qua giai đoạn tốc độ đô thị hóa vượt xa tiến độ xây dựng hệ thống sông ngòi, dẫn đến nhiều thiệt hại do ngập lụt. Cơ sở hạ tầng như đê điều và hệ thống thoát nước cần thời gian dài để hoàn thiện, nên việc kết hợp quy hoạch phát triển và kiểm soát lũ từ sớm là rất quan trọng. Ở Nhật, đối với các dự án phát triển lớn, chính phủ bắt buộc phải xây dựng hệ thống trữ nước mưa, nhằm kiểm soát lũ không chỉ ở sông mà trên toàn lưu vực.

Thứ ba, điều quan trọng cuối cùng là người dân cần biết rõ rủi ro tại nơi mình sinh sống. Ở Nhật Bản, sau mỗi trận lũ, nhiều người nói rằng “không ngờ nước lại dâng cao đến thế”, nhưng trên thực tế, các khu vực đó vốn đã là vùng có rủi ro cao. Vì vậy, Nhật Bản hiện nay đã lập bản đồ rủi ro ngập lụt (hazard map) dựa trên kịch bản lũ lớn nhất có thể xảy ra - tương đương với một trận lũ xuất hiện khoảng 1.000 năm mới có một lần. Các bản đồ này được phát cho từng hộ gia đình và công khai trên Internet, giúp người dân hiểu rõ mức độ rủi ro của khu vực mình sống và chủ động lập kế hoạch sơ tán khi có tình huống khẩn cấp. Việc “biết rõ rủi ro để hành động kịp thời” chính là bước đầu tiên để mỗi cá nhân có thể tự bảo vệ mình trong thiên tai.

PV: Như vậy, Nhật Bản đã từng đối mặt với những thách thức như thiếu sự phối hợp trong quy hoạch đô thị gắn với rủi ro thiên tai, và tốc độ đô thị hóa nhanh khiến khả năng thoát nước tự nhiên bị suy giảm. Xin ông chia sẻ cách Nhật Bản giải quyết những vấn đề này như thế nào?

Ông Moriyasu Kunihiro: Ở Nhật Bản, trước đây cũng từng có giai đoạn thiệt hại do lũ lụt trở nên nghiêm trọng hơn do quá trình đô thị hóa. Thực tế thì đến nay, vấn đề này vẫn là một thách thức lớn. Đặc biệt, tại các khu vực đô thị như Tokyo hay Osaka, việc phát triển nhà ở và đường xá trong lưu vực sông đã khiến đất mất đi khả năng giữ nước tự nhiên, hay còn gọi là chức năng thấm và trữ nước. Hệ quả là nước mưa chảy nhanh vào sông và hệ thống thoát nước, dẫn đến tình trạng ngập lụt lặp đi lặp lại trong các khu dân cư.

Để khắc phục và cải thiện vấn đề này, Nhật Bản đã giới thiệu một cách tiếp cận mới gọi là “quản lý tổng hợp lưu vực”. Tư tưởng chủ đạo của mô hình này là phòng chống lũ không chỉ trong lòng sông, mà trên toàn lưu vực. Cụ thể, có ba trụ cột chính:

Thứ nhất là cải thiện hệ thống sông và thoát nước: mở rộng lòng sông, xây dựng kênh thoát nước và cống ngầm để tăng khả năng tiêu thoát.

Thứ hai là tăng khả năng tạm trữ nước mưa: tận dụng sân trường, ruộng lúa, ao hồ, hồ điều hòa để giữ nước trong thời gian ngắn, tránh dồn áp lực xuống sông.

Thứ ba là giảm thiệt hại khi có ngập lụt thông qua công tác chuẩn bị, diễn tập sơ tán, và tăng cường khả năng thích ứng của cộng đồng.

Ba yếu tố này được kết hợp lại, huy động toàn bộ các bên liên quan trong lưu vực cùng phối hợp hành động. Ngoài ra, đối với các dự án phát triển quy mô lớn, chính phủ quy định bắt buộc các công trình phải  xây dựng hệ thống trữ nước mưa, tức là tích hợp phòng chống lũ ngay từ giai đoạn quy hoạch sử dụng đất.

Về cơ chế vận hành, chính quyền trung ương, các tỉnh và chính quyền địa phương phối hợp chặt chẽ, thành lập các nhóm điều phối theo lưu vực để thúc đẩy công tác phòng chống lũ gắn liền với quy hoạch đô thị.

Tóm lại, tại Nhật Bản, đặc biệt là ở các đô thị lớn, việc giảm thiểu rủi ro lũ lụt do đô thị hóa không chỉ dựa vào việc xây dựng đê điều hay nạo vét sông, mà còn là một chiến lược tổng thể từ quy hoạch đất đai, hạ tầng đến hành vi của người dân.

PV: Cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn!

Xem trên các nền tảng khác

Bình luận