Cuốn “Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” do Đỗ Bá (tự Công Đạo) biên soạn năm 1686, dưới thời Chính Hòa, do Chúa Trịnh Căn chỉ đạo được xem là một trong những văn kiện sớm nhất phản ánh việc khai thác, quản lý và thực thi chủ quyền của chính quyền phong kiến Việt Nam tại Bãi Cát Vàng - tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay.
Trong quyển 1 bộ sách này, phần bản đồ và chú giải đã mô tả chi tiết vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Bãi Cát Vàng: “Giữa biển có một dải cát dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm đứng dựng giữa biển. Từ cửa biển Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh (tức cửa biển Sa Kỳ) tỉnh Quảng Ngãi (nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi) mỗi khi có gió Tây Nam thì thuyền buôn các nước chạy ở phía trong trôi dạt ở đấy; gió Đông bắc thì thương thuyền chạy ở phía ngoài cùng trôi dạt luôn vào làm cho mọi người đều chết đói ở đây cả. Hàng hóa, vật liệu đều phải để lại nơi đó. Hàng năm vào cuối mùa Đông, Chúa Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đấy để lấy hàng hóa, vật sản, được nhiều vàng bạc, tiền tệ, súng đạn và các vật liệu khác…”
Bãi Cát Vàng là tên gọi mà nhân dân xứ Đàng Trong đặt cho hai quần đảo san hô, rồi chuyển sang âm Hán Việt là “Hoàng Sa”, “Hoàng Sa chử”. Tên gọi này thông dụng trong các văn kiện thời Lê và thời Nguyễn, chỉ chung hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa ngày nay. Theo GS Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, “Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” là một trong những tài liệu quý giá chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
“Bãi Cát Vàng đích thị là một từ Nôm, do người Việt, của người Việt nói, người Việt viết lại. Cái đó lúc đầu người ta gọi là bãi cát vàng thôi. Thế nhưng sau này trong các văn bản chính thức, không thể gọi nó là Bãi Cát Vàng được mà dịch ra Hán Việt là Hoàng Sa.”
Các tài liệu lịch sử của Việt Nam rất nhiều và khớp với các tài liệu nước ngoài đáng tin cậy cho phép kết luận rằng, ngay từ thế kỷ XVII, Việt Nam đã xác lập, thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi hai quần đảo này còn là lãnh thổ vô chủ và có thể nói là quốc gia duy nhất thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này hòa bình, liên tục và không gặp phải sự phản đối của bất kỳ quốc gia nào.
Nhiều bản đồ, tập địa đồ hay sách địa lý nước ta chỉ rõ, các quần đảo là một bộ phận của nước ta, cụ thể là: Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, 1774; Đại Nam Nhất Thống toàn đồ, 1838; Đại Nam Nhất Thống chí, 1882,vv…
Sự quản lý thật sự các quần đảo cũng xuất hiện trong nhiều tài liệu khác của Việt Nam. Những tài liệu quan trọng nhất có thể kể ra là: Đại Nam thực lục tiền biên, 1884 và Đại Nam thực lục chính biên, 1848…
TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ cho biết, một số tài liệu này có những lời phê bằng mực son, bút tích của nhà vua:
“Trong kho lưu trữ ở Huế, chúng ta đã tìm được những bút phê của nhà vua trong việc thành lập đội Hoàng Sa, rồi cử đội này ra Hoàng Sa và Trường Sa, với thời gian cụ thể và cả các quyết định phong chức cho các đội trưởng để chỉ huy ra Hoàng Sa và Trường Sa như Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật,vv... Chúng ta cũng tìm được trong các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn các văn bản của nhà vua trong việc cử các đinh tráng xung vào đội Hoàng Sa. Đây chính là bằng chứng pháp lý để nói rằng, rõ ràng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Đặc biệt, bộ Atlas thế giới của Philipe Vandemaelen xuất bản năm 1827, tại Bỉ, trong đó, vẽ và miêu tả rõ quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ của Vương quốc An Nam.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, với tư cách đại diện cho Việt Nam về đối ngoại theo Hiệp ước Patenôtre (pát tơ nốt) (năm 1884), chính quyền thuộc địa Pháp đã có nhiều hoạt động cụ thể củng cố chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ những năm 30 của thế kỷ XX, Pháp đã quy thuộc hai quần đảo vào các tỉnh đất liền, đặt quân đồn trú, xây cột mốc chủ quyền, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện trên hai quần đảo. Trong quan hệ quốc tế, Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối các đòi hỏi chủ quyền của các nước khác đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 10-1950, Pháp đã chuyển giao quyền quản lý hai quần đảo cho quốc gia Việt Nam.
Từ góc độ lịch sử và pháp lý cho thấy, Việt Nam là quốc gia đầu tiên và duy nhất đã xác lập, thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hành động chiếm đóng bằng vũ lực của nước khác đều trái với công pháp quốc tế, không thể làm thay đổi sự thật này.
Bình luận