VOV1 - Từ chỗ chỉ có 18 người, sống biệt lập trong hang đá, tận cùng của đói khổ và thất học, người Chứt ở Bản Rào Tre xã Hương Liên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh nay đã có một cuộc sống mới - đầy ắp hy vọng.
VOV1 - Từ chỗ chỉ có 18 người, sống biệt lập trong hang đá, tận cùng của đói khổ và thất học, người Chứt ở Bản Rào Tre xã Hương Liên, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh nay đã có một cuộc sống mới - đầy ắp hy vọng.
Giờ đây, làm việc bằng máy tính, hoặc sử dụng điện thoại thông minh đã trở nên quá quen thuộc với mọi người. Thế nhưng, vào những năm 60-70 của thế kỷ trước, chiếc máy tính, hay điện thoại di động còn vô cùng xa lạ với người Việt Nam. Có một trong những người ở Hà Nội may mắn được tiếp cận sớm với công nghệ thông tin đã trân trọng từng quyển sách, từng bức ảnh, rồi phần cứng, đĩa mềm…, để rồi sau 40 năm cho ra đời bảo tàng tư nhân về công nghệ thông tin đầu tiên ở Việt Nam, với rất nhiều tâm huyết. Biên tập viên Mai Hồng và Đình Trung mời quý vị và các bạn cùng đến thăm Bảo tàng công nghệ thông tin tư nhân đầu tiên ở VN và trò chuyện với chủ nhân của bảo tàng.
Ngày 26-3-1961, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang đã vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm. Người đã gặp gỡ, nói chuyện với gần 1,7 vạn đồng bào, cán bộ, chiến sỹ tỉnh Hà Giang. Trong cuộc nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng bào các dân tộc Hà Giang 8 vấn đề; trong đó Người đề cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà; đồng thời phải ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người áo ấm, cơm no. Đặc biệt, bác dặn, đời sống của đồng bào rẻo cao còn nhiều khó khăn, còn phải ra sức giúp đỡ đồng bào rẻo cao nhiều hơn nữa. Gần 60 năm trôi qua, những lời căn dặn của Bác luôn là kim chỉ nam để Đảng bộ, chính quyền và đồng bào các dân tộc Hà Giang phấn đấu thực hiện trong sự nghiệp phát triển bền vững và toàn diện kinh tế xã hội.
Giờ đây, làm việc bằng máy tính, hoặc sử dụng điện thoại thông minh đã trở nên quá quen thuộc với mọi người. Thế nhưng, vào những năm 60-70 của thế kỷ trước, chiếc máy tính còn vô cùng xa lạ với người Việt Nam. Có một trong những người ở Hà Nội may mắn được tiếp cận sớm với công nghệ thông tin đã trân trọng từng quyển sách, từng bức ảnh, rồi phần cứng, đĩa mềm…, để rồi sau 40 năm cho ra đời bảo tàng tư nhân về công nghệ thông tin đầu tiên ở Việt Nam, với rất nhiều tâm huyết. Trong chương trình Chân dung cuộc sống BTV Mai Hồng mời quý vị và các bạn đến thăm Bảo tàng công nghệ thông tin tư nhân đầu tiên ở VN và trò chuyện với chủ nhân của bảo tàng. Đó là Tiến sĩ Nguyễn Chí Công, người từng giữ nhiệm vụ Trưởng ban Khoa học Công nghệ Hội Tin học Việt Nam, Trưởng Tiểu ban mạng thuộc Chương trình quốc gia về Công nghệ thông tin.
Không phải là kỹ sư và cũng chưa từng trải qua lớp đào tạo nào về cơ khí, chế tạo máy, nhưng với sự say mê tìm tòi, nghiên cứu, anh Trần Đại Nghĩa, một nông dân ở xã Đông Hoàng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, đã sáng chế ra chiếc máy cấy lúa đầu tiên tại Việt Nam. Người nông dân quê lúa này mới đây còn sáng chế ra máy bón đạm tự động và cùng con trai cả nghiên cứu thử nghiệm thành công máy bay không người lái phun thuốc trừ sâu.
Đại dịch Covid-19 đã và đang gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân và nền kinh tế khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ đầu năm đến nay, nhiều người lao động mất việc làm, cuộc sống của những người dân nghèo, lao động tự do đã khó khăn càng thêm khó khăn. Họ sẵn sàng chấp nhận cuộc sống khó khăn hơn, chấp hành nghiêm quy định phòng, chống dịch của Chính phủ, Bộ Y tế, chung tay cùng Chính phủ phòng chống dịch. Trong khó khăn, những “bông hoa thiện nguyện” “nở rộ” trên khắp mọi miền Tổ quốc với rất nhiều hành động đẹp, những tấm lòng nhân ái tương trợ, giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. Chưa khi nào tinh thần tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách” của người dân Việt Nam được lan tỏa nhiều đến vậy. Tất cả cùng chung tay vì người nghèo, để không ai bị bỏ lại phía sau, không ai bị đứt bữa… Chúng ta cùng gặp gỡ những con người, những bông hoa đẹp tỏa ngát hương thơm, để cuộc đời này càng thêm ý nghĩa.
Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ, nhưng trên mảnh đất hình chữ S, những nỗi đau, những vết thương do chiến tranh để lại vẫn còn rất nhức nhối. Đó là bom mìn và vật liệu nổ còn sót lại trong lòng đất đe dọa tính mạng người dân bất cứ lúc nào, đó là hậu quả của chất độc da cam di chứng cho nhiều thế hệ… Nhà nước cùng cộng đồng xã hội đã và đang có hành động thiết thực và dài hơi nhằm giải quyết triệt để những hậu quả của thời chiến. Trong hành trình ấy, không thể không nhắc đến sự góp sức của những con người, từng ở bên kia chiến tuyến với chúng ta: họ là những cựu binh Mỹ. Đến nay, họ đã hiểu rõ cái giá của cuộc chiến, sự ám ảnh về bom đạn và chất độc từng rải xuống mảnh đất Việt Nam. Sự trở lại Việt Nam của họ không phải để ôn lại những ký ức đau thương, mà là hàn gắn lại những vết thương chưa lành của chiến tranh. Cùng gặp gỡ ông Chuck Searcy – một cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam những năm 1967-1968, với những câu chuyện về những hoạt động của một chuyên gia quốc tế về xử lý hậu quả bom mìn, cũng như vai trò kết nối những người Mỹ khác đến với Việt Nam.
Nghề đúc đồng ở nước ta ra đời từ rất sớm và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, nhưng đến nay, nghề thủ công truyền thống này vẫn được bảo tồn rất tốt nhờ những nghệ nhân tâm huyết. Nghệ nhân ưu tú Lê Văn Khang là một trong những người như vậy. Nghệ nhân Lê Văn Khang còn là người đầu tiên kết hợp giữa đúc đồng truyền thống với cơ khí hiện đại để tạo ra những bức tượng đồng để đời.
Việt Nam vừa ghi dấu ấn mới trên bản đồ y khoa thế giới, khi thực hiện thành công ca ghép tay từ người cho sống đầu tiên trên thế giới. “Tác giả” của ca ghép này là Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Hoàng, Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Từng là người Việt Nam đầu tiên và là người châu Á thứ tư được nhận Giải thưởng khoa học danh giá của Cộng hòa liên bang Đức, bác sĩ Nguyễn Thế Hoàng đã từ chối nhiều lời mời hấp dẫn ở lại đây làm việc, để trở về Việt Nam cống hiến. Với những gì học hỏi được từ nền y tế phát triển, sau khi về nước, bác sĩ Hoàng luôn nỗ lực, sáng tạo trong công việc chuyên môn để đem đến những điều tốt nhất cho sức khỏe bệnh nhân; đồng thời làm nên những điều kỳ diệu cho y học nước nhà.