Cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực năng lượng là Bộ Công Thương khẳng định, việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là hết sức cần thiết khi nhu cầu sử dụng năng lượng sẽ tăng cao trong thời gian tới. Muốn vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số nội dung được quy định tại Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Theo kế hoạch, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả sẽ được Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ IX Quốc hội khoá XV (theo quy trình một kỳ họp).
Diễn đàn chủ nhật (25/5/2025) có chủ đề: "Vì sao Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cần sớm được thông qua?" với sự tham gia bàn luận của các vị khách mời: ông Nguyễn Công Thịnh - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng; Ông Cù Huy Quang, Trưởng phòng Hiệu quả năng lượng, Chuyển đổi xanh, Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đối xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương).

TRAO ĐỔI KHÁCH MỜI:
MC: Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (SDNLTK&HQ) được Quốc hội thông qua tháng 6/2010 và có hiệu lực từ đầu năm 2011. Chúng ta bàn về việc sửa Luật, song trước tiên, chúng ta cũng cần nhìn nhận những kết quả đạt được sau gần 15 năm Luật được ban hành và đi vào cuộc sống.
Thưa ông Cù Huy Quang, Trưởng phòng Hiệu quả năng lượng, Chuyển đổi xanh, Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đối xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) - Đại diện cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực năng lượng, trong đó có việc SDNLTK&HQ: Xin ông cho biết những kết quả nổi bật kể từ khi Luật SDNLTK&HQ được thực thi?
Ông Cù Huy Quang: Luật SDNLTK&HQ được Quốc hội thông qua vào ngày 17 tháng 6 năm 2010 và Luật có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Như vậy, cho đến nay, Luật đã đi vào cuộc sống được 15 năm. Trong quá trình triển khai thực thi luật, chúng tôi nhận thấy rằng có một số kết quả cụ thể như sau, thứ nhất là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Luật đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và coi sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả là chính sách được ưu tiên hàng đầu, giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế gắn liền với an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường, phù hợp với các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Luật đã để lại những dấu ấn tích cực đối với toàn xã hội trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Việc ban hành Luật kịp thời và phù hợp với các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và các chính sách và phát triển năng lượng của nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mang lại đúng rất nhiều những kết quả tích cực.
Sau khi ban hành luật thì một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cũng đã được xây dựng và ban hành, tạo thành khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ, đảm bảo cho tính thực thi của các hoạt động trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả đạt được kết quả cao. Chúng ta có thể thấy rằng, sau khi ban hành Luật thì chúng tôi cũng đã ban hành 2 Nghị định của Chính phủ về quy định chi tiết các biện pháp thực thi Luật và quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Ngoài ra, trong những năm qua thì cũng có đến 16 Thông tư quy định về mức hiệu suất, năng lượng và các biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả trong các công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải nông nghiệp và các văn bản hướng dẫn tác nghiệp cho việc thực thi các quy định về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả cũng đã được ban hành. Ngoài 16 Thông tư thì chúng ta có đến 26 văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành các cấp trung ương và hơn 60 bộ tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu được ban hành và áp dụng cho các nhóm thiết bị phải dán nhãn năng lượng cũng như các phương tiện các mục tiêu kèm theo các phương pháp thử nghiệm đối với nhóm thiết bị này.
Thứ hai, sau khi Luật được ban hành đó là nhận thức của người dân, doanh nghiệp đã được nâng cao lên rất nhiều. Hàng năm, chúng tôi tổ chức rất nhiều những hoạt động, ngoài những lớp tập huấn, những hội nghị hội thảo, chúng tôi cũng có những hình thức khác nhau trong tuyên truyền. Ví dụ, hằng năm, chúng tôi hưởng ứng Chiến dịch Giờ trái đất, tổ chức rất nhiều các hoạt động bên lề nhằm thu hút và lan tỏa ý thức về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả trong cộng đồng.
Thứ ba, tôi cho rằng một trong những kết quả rất là khích lệ, đó là chuyển đổi được thị trường hiệu suất năng lượng từ mức hiệu suất năng lượng thấp, chúng ta đã chuyển đổi sang được thị trường có mức hiệu suất năng lượng cao. Hiện nay, thông qua chương trình dán nhãn năng lượng thì chúng ta có thể thấy được những thiết bị, những sản phẩm gia dụng cũng được dán nhãn năng lượng, nhưng phương tiện thiết bị công nghiệp thì cũng được dán nhãn năng lượng. Thông qua chương trình dán nhãn này, tiêu chuẩn về mức tiêu thụ năng lượng tối thiểu cũng được cải thiện và nâng cao rõ rệt.
MC: Thưa ông Nguyễn Công Thịnh - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng: Là thành viên Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, ông có bổ sung gì thêm vào những điểm nổi bật chúng ta đạt được khi đưa Luật SDNLTK&HQ vào thực thi? Và xin ông cho 1 vài ví dụ cụ thể của lĩnh vực xây dựng - cho thấy hiệu quả của việc áp dụng Luật SDNLTK&HQ thời gian qua?
Ông Nguyễn Công Thịnh: Sau hơn 15 năm chúng ta triển khai Luật, bên cạnh việc chúng ta đã xây dựng được hệ thống các văn bản, các cơ chế chính sách về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả cũng như hệ thống các quy chuẩn, tiêu chuẩn, các hệ thống về năng lực về dán nhãn rồi thử nghiệm các thiết bị hiệu suất năng lượng cao thì chuyển biến trên thị trường rất tích cực. Vấn đề thứ hai, tôi cho rằng thay đổi rất lớn đó là nhận thức của chủ thể trong Luật SDNLTK&HQ. Chúng tôi thấy rằng tập trung vào 3 chủ thể chính, đó là đối với các cơ sở xuất công nghiệp. Thứ hai, đối với tòa nhà và thứ ba đối với lĩnh vực giao thông vận tải.
Đối với các cơ sở trọng điểm tiêu hao nhiều năng lượng, theo quy định của Luật cũng như Nghị định 21/2011, chúng ta thấy rằng là các chủ công trình, các đối tượng, các chủ cơ sở mà có mức tiêu hao năng lượng lớn thuộc chế định của Luật thì đã phải có nhiều biện pháp. Ví dụ như là phải bố trí cán bộ quản lý năng lượng hay phải có ý thức về tổ chức xây dựng kế hoạch tiết kiệm năng lượng... Đặc biệt là vấn đề việc có kế hoạch để đổi mới công nghệ, thay đổi quá trình sản xuất để làm sao mà giảm mức tiêu hao năng lượng trên một đơn vị sản phẩm và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm, đóng góp cho chương trình tiết kiệm năng lượng. Thứ ba, quá trình triển khai thực hiện, tôi thấy rằng, việc tiết kiệm năng lượng chỉ không chỉ nằm ở các đối tượng liên quan đến đối tượng sản xuất hay đối tượng cung cấp nguyên liệu, vật mà còn đưa vào phát triển được đội ngũ tư vấn về tiết kiệm năng lượng trong các lĩnh vực.
Luật SDNLTK&HQ là một khung pháp lý rất quan trọng để chúng ta thúc đẩy việc phát triển công trình xanh Việt Nam. Đây là tiền đề, kinh nghiệm rất quý để cho chúng ta thấy rằng, để thúc đẩy các hoạt động về chuyển đổi sang thì cơ chế chính sách, trong đó các Luật, các quy định của pháp luật, các Nghị định, các Thông tư, các Quy chuẩn, tiêu chuẩn trong lĩnh vực năng lượng này đóng góp rất lớn để chúng ta chuyển đổi xanh nền kinh tế cũng như là thúc đẩy hoạt động tiết kiệm năng lượng. Và mục tiêu cao nhất là cũng đóng góp rất tích cực các giải pháp tiết kiệm năng lượng, các hoạt động tiết kiệm năng lượng, đóng góp vào việc chúng ta giảm phát thải khí nhà kính và hướng đến Net zero vào năm 2050.
MC: Có thể khẳng định, sau gần 15 năm ban hành và triển khai trên thực tế, Luật SDNLTK&HQ đã tạo dựng hành lang pháp lý, tháo gỡ các rào cản, cụ thể hóa các quy định về biện pháp quản lý, kỹ thuật và chính sách thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong toàn bộ các lĩnh vực, tạo điều kiện triển khai đồng bộ hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả của đất nước. Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai và cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, quá trình chuyển dịch xanh của thế giới, và đặc biệt là hiện thực hoá mục tiêu trung hoà cac-bon (Net-zero) vào năm 2050 theo cam kết của Chính phủ Việt Nam tạo COP 26 thì Luật SDNLTK&HQ còn những hạn chế, cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
PHÁT BIỂU CỦA BỘ TRƯỞNG NGUYỄN HỒNG DIÊN TẠI KỲ HỌP THỨ IX- QH15:
"Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả là rất cần thiết, nhằm kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương mới của Đảng trong lĩnh vực năng lượng và khắc phục một số vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với bối cảnh trong nước, thế giới hiện nay và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; tận dụng, thu hút được các nguồn lực trong và ngoài nước để hỗ trợ, thúc đẩy quá trình đầu tư tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi thị trường và các sản phẩm tiết kiệm năng lượng.
Quá trình xây dựng hồ sơ dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNL TKHQ được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định. Cơ quan soạn thảo đã tổ chức lấy ý kiến thông qua các cuộc hội thảo tham vấn, đăng trang web, gửi văn bản lấy ý kiến các Bộ ngành, địa phương, các Đoàn ĐBQH, các chuyên gia, nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn, các đối tượng chịu sự tác động và ý kiến nhân dân để nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Luật cùng các hồ sơ tài liệu có liên quan, báo cáo Chính phủ thống nhất thông qua, trình Quốc hội tại Tờ trình số 176, ngày 08/4/2025.
Dự án Luật đã được Ủy ban KHCN&MT và các cơ quan của Quốc hội thẩm tra kỹ lưỡng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến.
Trên cơ sở tiếp thu kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ý kiến thẩm tra của Ủy ban KHCN&MT, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương rà soát, chỉnh lý các báo cáo, tài liệu trong hồ sơ Dự án Luật và đã có Báo cáo số 308 ngày 04/5/2025 tiếp thu, giải trình các ý kiến kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; ý kiến thẩm tra của Ủy ban KHCN&MT và hoàn thiện hồ sơ dự án Luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp này".
MC: Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, chiều ngày 5/5/2025, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã báo cáo trước Quốc hội về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả - với một số điểm nhấn như trên. Thưa ông Cù Huy Quang, qua thực tế triển khai Luật SDNLTK&HQ, cơ quan quản lý nhà nước nhìn nhận đâu là những bất cập lớn nhất cần sửa đổi ở Luật này?
Ông Cù Huy Quang: Sau 15 năm triển khai thi hành thì chúng tôi nhận thấy trong bối cảnh hiện nay đã có nhiều thay đổi, dẫn đến các quy định của Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả đã bộc lộ nhiều bất cập cần được sửa đổi. Để giải quyết những bất cập và tháo gỡ những điểm nghẽn trong chính sách nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp chuyển đổi sang các mô hình phát triển xanh, thứ nhất là bối cảnh hiện nay so với thời điểm ban hành thì hệ thống pháp luật đã có nhiều thay đổi, nhiều luật mới liên quan đã được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung. Hơn nữa, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia theo hướng xanh hóa. Đặc biệt, Việt Nam đã gia nhập nhiều Hiệp định thương mại tự do và đã trở thành thành viên của các Hiệp định này. Chúng ta đã cam kết phải đưa phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Thứ hai là cuộc cách mạng 4.0 về chuyển đổi số và hội nhập quốc tế đang là xu hướng chủ đạo, tác động mạnh mẽ toàn diện lên quá trình sản xuất. Với những bối cảnh như thế thì việc triển khai thi hành đã cho thấy một số quy định của Luật SDNLTK&HQ đã bộc lộ những bất cập vướng mắc không còn phù hợp trong quá trình triển khai thực tiễn.
Chúng tôi nhận thấy rằng, trong quá trình triển khai Luật thì có một số cái bất cập mà có thể nói là nổi cộm: Thứ nhất là chưa cụ thể hóa, thể chế hóa được các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế xanh, phát thải thấp và thân thiện môi trường. Thứ hai là chúng ta đang thiếu những cơ chế ưu đãi, hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư nâng cấp, cải tạo dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất bằng công nghệ tiết kiệm năng lượng hay là thiếu cơ chế ưu đãi cho các dự án đầu tư vào các cơ sở tiết kiệm năng lượng để sản xuất, lắp đặt máy móc, thiết bị hoặc các vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng. Chúng ta cũng còn thiếu những cơ chế hỗ trợ cho những dự án nhằm tối ưu hóa việc sử dụng năng lượng hoặc giảm phát thải khí nhà kính.
Chúng ta cũng vẫn còn thiếu những công cụ tài chính nhằm thúc đẩy mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư, cải tạo hoặc là triển khai các giải pháp về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Và cho đến nay, nếu không sửa đổi thì sẽ thiếu tính đồng bộ để triển khai với những chính sách của những Luật khác, liên quan đến lĩnh vực năng lượng nói riêng và lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả nói chung. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNLTK&HQ là rất cần thiết và kịp thời để thể chế hóa được đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực năng lượng, khắc phục một số vướng mắc bất cập của luật hiện hành, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật phù hợp với bối cảnh trong nước và thế giới và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
MC: Xin ông cho biết những chính sách lớn được tập trung sửa đổi tại Luật SDNLTK&HQ?
Ông Cù Huy Quang: Trong tờ trình Chính phủ và cũng được Chính phủ thông qua cũng như là Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua, trong dự thảo Luật SDNLTK&HQ lần này thì chúng tôi tập trung vào bốn chính sách lớn. Chính sách thứ nhất là nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Chính sách thứ hai, đó là chính sách về quản lý, phát triển đối với các dịch vụ tư vấn năng lượng, kiểm toán năng lượng, đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Chính sách thứ ba, đó là những quy định về chính sách ưu đãi các công cụ tài chính cho lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Trong chính sách này, một trong những điểm nổi bật đó là chúng tôi đề xuất thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Chính sách thứ tư, đó là chính sách về chuyển đổi thị trường và quản lý hiệu suất, năng lượng các phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng. Đây là 4 chính sách lớn mà chúng tôi dự kiến sẽ sửa đổi, bổ sung trong dự thảo luật lần này.
MC: Thưa ông Nguyễn Công Thịnh: Từ thực tế triển khai Luật SDNLTK&HQ vào các lĩnh vực của ngành xây dựng thời gian qua, ông thấy những điểm bất cập/khuyết thiếu lớn nhất cần sửa đổi, bổ sung là gì?
Ông Nguyễn Công Thịnh: Chúng tôi cho rằng cần phải cụ thể hóa bằng các điều khoản, các quy định cụ thể để chúng ta tháo gỡ những rào cản để thúc đẩy các hoạt động tiết kiệm năng lượng trong tất cả các lĩnh vực. Đối với ngành xây dựng, chúng tôi thấy rằng, Luật năm 2010 thì chúng ta tập trung vào các cơ sở trọng điểm có quy mô sử dụng năng lượng lớn. Thứ hai là các giải pháp các biện pháp các chế tài trong Luật năm 2010 mang tính khuyến khích mạnh nhưng sau khoảng 15 năm chúng ta thấy rằng đến lúc cần phải thay đổi.
Tôi cho rằng là một trong những bất cập cần sửa đổi là chúng ta nên mở rộng các đối tượng thực thi các quy định về tiết kiệm năng lượng một cách nghiêm ngặt hơn để chúng ta thúc đẩy các hoạt động tiết kiệm năng lượng, đáp ứng các yêu cầu về chuyển đổi xanh cũng như mục tiêu về giảm phát thải. Tôi nói ví dụ, trước đây chúng ta chỉ tập trung vào 3 lĩnh vực chính là lĩnh vực về các cơ sở công nghiệp, thứ hai là đối với tòa nhà và thứ ba là giao thông vận tải. Đến Luật lần này thì tôi nghĩ rằng là chúng ta phải mở rộng thêm các đối tượng khác, trong các lĩnh vực khác. Ví dụ như lĩnh vực sản xuất nông nghiệp hay các lĩnh vực khác có nhu cầu tiêu thụ năng lượng rất cao hay là kể cả các cơ sở mà sản xuất năng lượng như là bản thân các cơ sở đó, mặc dù sản xuất ra năng lượng nhưng cũng phải có các giải pháp tiết kiệm năng lượng để chúng ta giảm thất thoát trong quá trình sản xuất cũng như truyền tải phần năng lượng đó đến nguồn tiêu thụ cuối cùng.
Tôi cho rằng, biện pháp mà hỗ trợ thị trường là một giải pháp rất quan trọng. Trong 15 năm qua, mặc dù chính sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đưa ra thì đã có những vấn đề ưu tiên cũng như cơ chế ưu đãi để thúc đẩy các hoạt động tiết kiệm năng lượng cho các lĩnh vực tuy nhiên việc tiếp cận được các nguồn vốn, các cơ chế ưu đãi này còn có nhiều hạn chế. Chúng ta thấy rằng các doanh nghiệp phần nào tiếp cận được nguồn vốn xanh, thông qua các nguồn tín dụng xanh của các tổ chức tài chính và các ngân hàng. Tuy nhiên, chúng ta cần phải quy định cụ thể hơn và có các lộ trình cũng như các nguồn tài chính rõ ràng. Tôi cho rằng, Quỹ thúc đẩy các hoạt động tiết kiệm năng lượng cũng là một giải pháp đột phá để chúng ta có thể mở rộng thêm được các nguồn lực về tài chính để hỗ trợ cho các giải pháp tiết kiệm năng lượng của các chủ dự án cũng như các chủ công trình và các đối tượng có liên quan.
Một giải pháp nữa tôi cho cũng rất quan trọng là vai trò của các Công ty dịch vụ năng lượng. Bộ Công Thương cũng đã đề xuất và cũng được Chính phủ cũng như Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua đó là vấn đề về phát triển các Công ty dịch vụ năng lượng. Tôi cho rằng là từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của Trung Quốc hay Nhật Bản hay một số nước khác, khi chúng ta phát triển được các công ty dịch vụ năng lượng, phát triển được các dịch vụ về tư vấn, về tiết kiệm năng lượng thì sẽ là “bà đỡ” rất quan trọng để chúng ta hỗ trợ được các chủ công trình, chủ nhà máy, các chủ dự án để áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng từ các dự án xây dựng mới hoặc là các dự án cải tạo thay thế trang thiết bị cũng như đổi mới công nghệ.
Cuối cùng, chúng tôi cũng đề xuất và cũng đã được cơ quan soạn thảo chấp thuận đưa vào nội dung sửa đổi, đó là vấn đề mà mở rộng đối tượng phải dán nhãn tiết kiệm năng lượng. Trong dự thảo Luật đang trình Quốc hội xem xét, chúng ta bổ sung thêm đối tượng đó là các sản phẩm vật liệu xây dựng mà có tính năng nhiệt, phải có yêu cầu về dán nhãn năng lượng để chúng ta thúc đẩy các hoạt động về tiết kiệm năng lượng đối với các sản phẩm và vật liệu xây dựng. Chúng tôi cho rằng, các sản phẩm vật liệu xây dựng có yếu tố rất quan trọng trong việc quyết định mức độ sử dụng năng lượng, hiệu quả của các công trình xây dựng, đáp ứng các tiêu chuẩn xanh cho công trình đó trong giai đoạn hoạt động.
MC: Để tiếp tục đi sâu bàn luận, xin mời quý vị cùng nghe tổng hợp sau đây:
"Ngày 29/4/2025, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Cơ quan thẩm tra khẳng định, hồ sơ dự án Luật cơ bản đủ điều kiện trình Quốc hội theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát, đối chiếu, đánh giá từng nội dung trong 04 nhóm chính sách với các quy định của dự thảo Luật để bảo đảm đồng bộ; các nội dung sửa đổi phải đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý nhà nước và hội nhập quốc tế.
Đánh giá cao các nội dung được sửa đổi, bổ sung vào Luật SDNL TK&HQ, song ông Nguyễn Đình Hiệp, Chủ tịch Hội Khoa học và Công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả Việt Nam cho rằng, cần có chế tài mạnh hơn để bắt buộc các đối tượng sử dụng nhiều năng lượng phải sử dụng hiệu quả năng lượng thông qua đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ: "Trong lĩnh vực công nghiệp hiện nay chúng ta mới chỉ bắt buộc các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm áp dụng các biện pháp cụ thể trong TKNL, còn phần lớn các doanh nghiệp khác thì tự nguyện áp dụng. Mà các doanh nghiệp trọng điểm thì hiện nay chúng ta mới có khoảng 3.500 cơ sở - chiếm khoảng hơn 40% nhu cầu sử dụng năng lượng trong công nghiệp, còn lại một phần rất lớn chúng ta vấn đề tự do, khuyến khích thôi, trong khi mức độ tăng trưởng của các doanh nghiệp công nghiệp trọng điểmhiệ nay vào khoảng 10-15 % một năm thì số lượng là rất lớn, cho nên chúng ta thiết kế làm sao để tăng cường áp dụng bắt buộc đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều năng lượng cũng như các lĩnh vực công nghiệp tiêu tốn nhiều năng lượng…
Đồng quan điểm này, ông Võ Quang Lâm - Phó TGĐ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đề xuất: "Thứ nhất là chúng ta phải quan điểm việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả là trách nhiệm, quy định của pháp luật chứ không phải là khuyến khích. Chính vì vậy các nội dung này chúng ta phải nhấn mạnh đây là một giải pháp quan trọng để chúng ta hướng đến xây dựng một nền kinh tế xanh cũng như phát triển bền vững. Thứ hai là tăng cường công tác kiểm toán và nhấn mạnh vai trò của các công ty dịch vụ năng lượng ESCO, thì chúng tôi cũng mong muốn là việc này chúng ta cũng rõ ràng trách nhiệm của các bộ ngành, địa phương trong việc tạo môi trường để các công ty dịch vụ năng lượng có thể thành lập và vận hành được".
MC: Xin được hỏi ông Cù Huy Quang: Những góp ý tại phiên họp thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNLTK&HQ của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội ngày 29/4/2025 đã được cơ quan soạn thảo tiếp thu, bổ sung/hoàn thiện như thế nào?
Ông Cù Huy Quang: Dựa trên cơ sở Tờ trình của Chính phủ trình sang Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 29 tháng 4 năm 2025 thì Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có thẩm tra chính thức đối với dự án Luật SDNLTK&HQ , trên cơ sở tiếp thu những góp ý tại phiên họp thẩm tra đối với dự án Luật SDNLTK&HQ của Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cơ quan soạn thảo đã nghiêm túc rà soát, nghiên cứu và chỉnh sửa dự thảo Luật SDNLTK&HQ. Chúng tôi đã bám sát Nghị quyết số 158 năm 2024 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2025, chúng tôi rà soát, đối chiếu, đánh giá đến từng nội dung trong 4 nhóm chính sách đối với các quy định của dự thảo Luật để đảm bảo tính đồng bộ, các nội dung sửa đổi phải đáp ứng được yêu cầu thực tiễn quản lý nhà nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với các nội dung trong Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, chúng tôi cũng đã nghiên cứu kỹ và tiếp thu để sửa đổi, bổ sung các điều trong dự thảo luật nhằm tăng cường đầu tư, sử dụng đa dạng các hình thức, huy động các nguồn lực để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng tạo chuyển đổi xanh về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển nguồn năng lượng tái tạo để phù hợp với bối cảnh quốc tế và tiềm năng cũng như điều kiện của Việt Nam nhằm góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, chúng tôi cũng nghiên cứu và bám sát những nội dung tại Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, chúng tôi đã nghiên cứu và xây dựng đề án thành lập Quỹ thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Trong đề án này, chúng tôi cũng đã đề xuất mô hình Quỹ ủy thác cho các ngân hàng thương mại hoặc là một tổ chức tài chính chuyên nghiệp để có thể quản lý, đảm bảo không phát sinh bộ máy và phù hợp việc nhân rộng cho vay quy mô lớn. Điều này giảm các thủ tục hành chính, chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình xã hội hóa, dịch vụ tài chính, giảm thiểu những cơ chế xin cho có thể chúng ta sẽ bắt gặp đâu đó. Chúng tôi đã đề xuất nghiên cứu kỹ những quy định tại Nghị quyết, chúng tôi cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước vào trong dự thảo luật lần này.
MC: Thưa ông Nguyễn Công Thịnh: cũng là thành viên Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNLTK&HQ, ông nhìn nhận như thế nào về góp ý của Cơ quan thẩm tra khi đề nghị bổ sung một số nội dung, trong đó có việc bám sát Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia? Và thực tế việc sửa đổi, bổ sung Luật lần này đã quan tâm tới yếu tố này như thế nào?
Ông Nguyễn Công Thịnh: Đứng ở góc độ của Bộ Xây dựng, chúng tôi đánh giá rất cao vai trò của khoa học công nghệ cũng như là chuyển đổi số trong các lĩnh vực, trong đó có ngành xây dựng và trong đó có cả các hoạt động về tiết kiệm năng lượng. Các giải pháp về đổi mới công nghệ, ứng dụng chuyển đổi số quyết định rất lớn đối với mức độ về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đối với các dự án đầu tư mới hoặc là các dự án mà có nhu cầu cải tạo nâng cấp. Tôi thấy rằng là ý kiến cơ quan thẩm tra, đề nghị bổ sung các nội dung, trong đó có việc bám sát Nghị quyết 57 trong dự thảo Luật là rất chuẩn xác. Chúng tôi thấy rằng là Ban soạn thảo và đầu mối là Bộ Công Thương cũng như là Tổ biên tập đã có những điều chỉnh cũng như tiếp thu các ý kiến của cơ quan thẩm tra. Chúng ta đưa ra các giải pháp về khuyến khích đổi mới cũng như áp dụng các công nghệ, trong đó các công nghệ mới, vật liệu mới, sản phẩm mới trong việc mà sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Thứ hai là việc áp dụng vai trò của chuyển đổi số trong việc mà chúng ta thực thi việc xây dựng cơ sở dữ liệu cũng như các chế độ báo cáo, thống kê về sử dụng năng lượng cũng như là đối với các cơ sở, các địa phương để áp dụng chuyển đổi số, giảm thiểu chi phí tuân thủ cũng như là đảm bảo hệ thống số liệu được liên thông, có sự chia sẻ giữa các cơ quan với nhau cả ở cấp trung ương cấp địa phương và đối với các doanh nghiệp, kể cả các đơn vị tư vấn một cách dễ dàng.
MC: Xin được hỏi quan điểm của các vị khách mời sau khi nghe các ý kiến góp ý của ông Nguyễn Đình Hiệp, Chủ tịch Hội Khoa học và Công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả Việt Nam và ông Võ Quang Lâm - Phó TGĐ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) v/v cần có chế tài mạnh hơn để bắt buộc các đối tượng sử dụng nhiều năng lượng phải sử dụng hiệu quả năng lượng?
Ông Cù Huy Quang: Trong Luật SDNLTK&HQ thì hiện nay đã có những chính sách bắt buộc đối với các doanh nghiệp tiêu thụ năng lượng lớn, đây được gọi là các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm triển khai những quy định của Luật SDNLTK&HQ. Ví dụ, đối với các doanh nghiệp sử dụng năng lượng trọng điểm thì chúng ta bắt buộc phải thực hiện là phải có người quản lý năng lượng và thực hiện vai trò chuyên trách quản lý năng lượng tại doanh nghiệp, bắt buộc phải thực hiện kiểm toán năng lượng 3 năm/lần, bắt buộc phải xây dựng mô hình quản lý năng lượng, xây dựng kế hoạch hàng năm và 5 năm về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả tại doanh nghiệp.
Tôi cho rằng chúng ta có rất nhiều chính sách tại doanh nghiệp, không nhất thiết cứ phải có những chế tài thật là mạnh mẽ thì các doanh nghiệp mới phải thực hiện mà tôi cho rằng quan trọng đó là nhận thức của doanh nghiệp về việc sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, hướng tới sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, hướng tới một mục tiêu cao hơn, đó là cuộc sống xanh, cuộc sống an toàn. Chúng ta phát triển nhưng chúng ta cũng không có nghĩa là chúng ta đánh đổi mọi thứ để chúng ta phát triển.
Ông Nguyễn Công Thịnh: Tôi thấy rằng những biện pháp bắt buộc đối với các đối tượng sử dụng nhiều năng lượng, tức là các cơ sở sử dụng trọng điểm thì cũng đã được quy định tại Luật 2010 cũng như Nghị định 21 năm 2011 nhưng mà theo tôi là chúng ta phải nâng cao hiệu quả thực thi. Tôi cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta rất phù hợp trong việc mà Đảng, Nhà nước đang đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho các địa phương thực hiện. Trong dự thảo Luật đã đề xuất quy định là các Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố sẽ được phân cấp về ban hành Danh mục các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm trên địa bàn và các địa phương cũng là những cái cấp thẩm quyền để mà giám sát việc thực thi các giải pháp về tiết kiệm năng lượng đối với các đối tượng trọng điểm này. Tôi cho rằng, cùng với quá trình mà chúng ta mở rộng các đối tượng, việc chúng ta thiết kế các nội dung của Luật cũng như các văn bản dưới Luật theo hướng là phân cấp phân quyền mạnh hơn cho các địa phương để chủ động trong việc mà thực thi các chính sách về tiết kiệm năng lượng này sẽ tạo hiệu quả tốt hơn trong việc mà tuân thủ của các doanh nghiệp.
Thứ hai, đi đôi với việc chúng ta đưa ra các quy định bắt buộc về các giải pháp như về chế độ báo cáo, vấn đề về kiểm toán năng lượng, kế hoạch tiết kiệm năng lượng, tôi cho rằng là nhận thức rất quan trọng. Đặc biệt, chúng ta nêu bật được cái gọi là lợi ích win - win, tức là hai bên cùng có lợi, không phải chỉ đóng góp cho Nhà nước, không phải chỉ đóng góp cho vấn đề về an ninh năng lượng mà chúng ta phải nhấn mạnh vào yếu tố là lợi ích của doanh nghiệp mang lại khi tiết kiệm năng lượng. Bởi vì bản thân doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí cấu thành của sản phẩm, giảm được chi phí sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ ba, tôi cho rằng là việc mà chúng ta đẩy mạnh hiệu quả thực thi các giải pháp về tiết kiệm năng lượng thì tạo ra hình ảnh cho doanh nghiệp. Ví dụ như là các cuộc thi các giải thưởng về tiết kiệm năng lượng. Ví dụ, giải thưởng chất lượng cho các doanh nghiệp công nghiệp hay là cho các tòa nhà... là những giải pháp mà chúng ta tôn vinh các cái việc mà tiết kiệm năng lượng đối với các doanh nghiệp mà thực hiện tốt. Và chúng tôi thấy rằng là những giải pháp mà chúng ta cùng với cả vận động tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức cùng với các chế tài mạnh hơn thì sẽ thúc đẩy các hoạt động tiết kiệm năng lượng tốt hơn các cơ sở trọng điểm mà phải bắt buộc áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng theo quy định của Luật.
MC: Kinh nghiệm quốc tế trong việc triển khai áp dụng chế tài bắt buộc về việc SDNLTK&HQ như thế nào?
Ông Cù Huy Quang: Chúng tôi đã nghiên cứu nhiều quy định của nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Ví dụ như chúng tôi đã nghiên cứu những quy định của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc hay EU, Mỹ trong những chính sách để thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng, có hai trường phái. Thứ nhất là có rất nhiều quốc gia thì bắt buộc, các doanh nghiệp bắt buộc phải triển khai thực hiện các quy định về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả. Tôi cho rằng bắt buộc là cái bắt buộc là rất cần thiết, vì ngoài việc nâng cao ý thức trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm qua gia thì chúng ta vẫn phải có những chế tài, phải có những bắt buộc để chung tay cùng cộng đồng xây dựng một xã hội phát triển bền vững. Trường phái thứ hai, chúng tôi cũng thấy rằng là có rất nhiều chính sách, đặc biệt là của các nước phát triển như EU thì họ thiên về những chính sách hỗ trợ thúc đẩy, hỗ trợ thúc đẩy nhiều hơn là bắt buộc. Trong quá trình nghiên cứu và triển khai thực tế, khảo sát thực tiễn thì chúng tôi thấy rằng là Đan Mạch thì cũng có những chính sách hoàn toàn là khuyến khích, có những chính sách về thỏa thuận tự nguyện hoặc là Nhà nước sẵn sàng mua lại những dự án mà nó đã đạt hiệu quả năng lượng của các doanh nghiệp.
Trong dự thảo luật lần này, thứ nhất là sẽ nâng cao hiệu quả hiệu lực trong việc thi hành các quy định của Luật SDNLTK&HQ. Chúng ta cũng đẩy mạnh phân cấp phân quyền xuống các cơ quan làm sao để thực thi quy định của Luật một cách nghiêm túc nhất. Chúng ta có những chính sách về thúc đẩy các doanh nghiệp. Ví dụ như là công cụ về quỹ để có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp mà tiếp cận với những nguồn kinh phí vốn vay ưu đãi để doanh nghiệp có thể sẵn sàng đầu tư trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
MC: Tại dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả lần này có nội dung về lập “Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng TK&HQ”. Có ý kiến cho rằng, đây là một trong những nội dung mới và quan trọng nhất của Dự thảo Luật sửa đổi lần này. (Quỹ được thiết kế theo định hướng tại Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045). Tuy nhiên, đến nay vẫn có 2 luồng ý kiến: (1) tán thành và (2) góp ý tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng - vì cho rằng - có thể cân nhắc việc sử dụng Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia (Natif) cho việc hỗ trợ tài chính, thúc đẩy hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Thưa ông ông Cù Huy Quang, Trưởng phòng Hiệu quả năng lượng, Chuyển đổi xanh, Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đối xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương): Ông có thể làm rõ về điều này?
Ông Cù Huy Quang: Cơ quan chủ trì soạn thảo chúng tôi đã nghiên cứu rất kỹ việc thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả là cần thiết. Trong cuộc họp tổ vào ngày mùng 10 tháng 5 vừa qua, chúng tôi đã ghi nhận được rất nhiều ý kiến của các đại biểu Quốc hội về vấn đề này, phần lớn các đại biểu Quốc hội cho rằng việc thành lập Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là cần thiết. Trong khi đó, còn một số đại biểu Quốc hội có ý kiến khác. Với quan điểm của cơ quan chủ trì soạn thảo và thông qua nghiên cứu về cái Quỹ thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, chúng tôi cho rằng việc thành lập quỹ là rất cần thiết. Chúng tôi cũng đề xuất thành lập một quỹ riêng là không tích hợp các quỹ này vào các quỹ khác bởi vì một số lý do. Thứ nhất là việc thành lập Quỹ sẽ thể chế hóa được chủ trương, đường lối của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 55, trong Nghị quyết thì cũng đã nêu rất rõ về việc xây dựng cơ sở pháp lý để hình thành hiệu quả Quỹ về phát triển năng lượng bền vững, thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả.
Việc thành lập Quỹ này cũng đã từ chủ trương của Bộ Chính trị, các cơ quan Trung ương cũng đã có ý kiến về việc thành lập Quỹ này. Thứ hai, việc thành lập quỹ thì sẽ đáp ứng được yêu cầu về nguồn vốn vì đặc thù của các dự án trong các dự án hoạt động trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả, thường xuyên có những yêu cầu về nguồn vốn rất lớn. Thứ ba nữa, đó là trong quá trình nghiên cứu Quỹ, chúng tôi cũng đề ra nguyên tắc là ủy thác cho doanh nghiệp mà ủy thác nghiệp vụ tín dụng cho một ngân hàng thương mại. Ngoài việc tiết kiệm được chi phí thì còn đảm bảo xã hội hóa từ các nguồn vốn khác, từ các nhà tài trợ và cơ chế giám sát nguồn vốn này thì sẽ được minh bạch và cho phép Quỹ có thể thu hút được các nhà đầu tư lớn. Các doanh nghiệp tiếp cận với Quỹ này sẽ dễ dàng hơn, tiếp cận qua ngân hàng thương mại.
Chúng tôi cho rằng, việc hình thành Quỹ cũng thiết lập được một cơ chế đó là cơ quan đại diện sẽ trực tiếp có thể đàm phán trực tiếp với các nhà đầu tư, các nhà tài trợ để có thể phản hồi nhanh chóng với các cơ quan quản lý cũng như tài trợ, đáp ứng linh hoạt về lãi suất vay theo từng thời kỳ, tức là nếu như chúng ta đàm phán được lãi suất ưu đãi thấp thì các doanh nghiệp cũng sẽ được ưu đãi hưởng lãi vay được cũng sẽ rất thấp. Đây là điều mới mà sẽ xã hội hóa và thu hút được nguồn và tạo điều kiện được cho các doanh nghiệp tiếp cận một cách dễ dàng hơn vay với mức ưu đãi linh hoạt hơn.
MC: Theo kế hoạch, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả sẽ được Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 QH khoá 15 (theo quy trình một kỳ họp).
Thưa ông Cù Huy Quang: Xin ông cập nhật tiến độ lấy ý kiến góp ý cũng như chỉnh sửa, bổ sung các góp ý của các tổ chưc/cá nhân cho đến thời điểm hiện nay? Khả năng đáp ứng các yêu cầu về thời gian + chất lượng để đảm bảo trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 QH khoá 15 (theo quy trình một kỳ họp)?
Ông Cù Huy Quang: Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SDNLTK&HQ thì chúng tôi g đã triển khai đầy đủ các quy định của Luật ban hành văn bản, đặc biệt là Luật Ban hành văn bản 2025, chúng tôi đã tuân thủ những quy trình. Cho đến nay thì dự án Luật SDNLTK&HQ cũng đã được lấy ý kiến rộng rãi đối với các tầng lớp nhân dân và sau 60 ngày thì chúng tôi cũng chưa nhận được ý kiến nào từ các phía. Chúng tôi đã rà soát và đảm bảo tiến độ của dự án Luật trong họp thứ 9 và dự kiến sẽ được thông qua vào ngày 24 tháng 6 tới đây.
Từ nay cho đến ngày đấy, chúng tôi cũng còn rất nhiều những vấn đề cần phải được làm rõ sáng tỏ và chúng tôi sẽ phối hợp với các cơ quan của Quốc hộ để hoàn thiện một cách hoàn chỉnh nhất đối với dự thảo luật. Cụ thể, vào ngày 28 tháng 5 tới đây thì theo chương trình của Quốc hội thì dự thảo Luật sẽ được lấy ý kiến rộng rãi tại Nghị trường. Sau đó, chúng tôi sẽ làm việc với các cơ quan của Quốc hội để hoàn thiện. Dự kiến là sẽ thông qua vào ngày 24 tháng 6 theo lịch chương trình làm việc của Quốc hội.
MC: Thưa ông Nguyễn Công Thịnh: việc Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả sớm được thông qua sẽ đem lại các lợi ích cụ thể gì? Theo ông, cần bổ sung điều gì để đạt được mục tiêu cao nhất về SDNLTK&HQ thời gian tới?
Ông Nguyễn Công Thịnh: Chúng tôi kỳ vọng rằng, Luật sẽ giải quyết được những bất cập khi luật được thông qua. Chúng ta thấy rằng là phân cấp phân quyền của các địa phương sẽ được tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đối tượng mà chịu chế tài của Luật sẽ có điều kiện áp dụng Luật một cách thuận lợi. Thứ hai, bên cạnh các giải pháp, trong đó có chính sách về phát triển các dịch vụ tiết kiệm năng lượng. Đặc biệt là các Công ty dịch vụ năng lượng sẽ tạo ra một thị trường mới, một xung lực mới, một nguồn lực mới của khối tư nhân trong việc triển khai các hoạt động tư vấn, đầu tư cải tạo cũng như nâng cấp các trang thiết bị công nghệ của các đối tượng mà tiêu hao năng lượng để đáp ứng yêu cầu tiết kiệm năng lượng. Thứ ba, rất quan trọng, việc chúng ta mở rộng nhóm đối tượng và phân cấp mạnh hơn cho các địa phương trong việc dán nhãn năng lượng... Chúng tôi cũng đang chuẩn bị các điều kiện, quy định cụ thể khi Luật được thông qua thì các văn bản dưới Luật sẽ được nghiên cứu và trình cấp có thẩm quyền ban hành, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng. Thứ tư, tôi cho rằng việc huy động tài chính, hỗ trợ nguồn vay ưu đãi, các nguồn tín dụng xanh... sẽ có khung khuôn khổ pháp lý đầy đủ. Nếu được thực hiện khi Luật có hiệu lực thì sẽ tạo ra một cú hích rất lớn để chúng ta hỗ trợ cho các hoạt động tiết kiệm năng lượng ở tất cả các đối tượng mà quy định trong Luật cũng như các đối tượng khác mà thuộc diện khuyến khích áp dụng của Luật.
++ MC: Thưa quý vị! Qua trao đổi, bàn luận của các vị khách mời chúng ta thấy rõ ràng, việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả là rất cần thiết, nhằm kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương mới của Đảng trong lĩnh vực năng lượng và khắc phục một số vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với bối cảnh trong nước, thế giới hiện nay và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; tận dụng, thu hút được các nguồn lực trong và ngoài nước để hỗ trợ, thúc đẩy quá trình đầu tư tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi thị trường và các sản phẩm tiết kiệm năng lượng – như khẳng định của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên - thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ đã báo cáo trước Quốc hội về Dự án Luật này.
Thời gian của Diễn đàn chủ nhật với chủ đề Vì sao Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cần sớm được thông qua? đến đây là hết. Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn các vị khách mời: Ông Nguyễn Công Thịnh - Phó Vụ trưởng - Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng - thành viên Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả và Cù Huy Quang, Trưởng phòng Hiệu quả năng lượng, Chuyển đổi xanh, Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đối xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) đã tham gia chương trình. Cảm ơn quý vị và các bạn đã chú ý theo dõi!
Kịch bản: Thành Trung
MC: Bá Toàn
Bình luận