Tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội là hệ thống những quan điểm cách mạng, khoa học về chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho quần chúng nhân dân. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, những năm qua, Đảng đã lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác an sinh xã hội; đời sống của người dân trong cả nước không ngừng được nâng lên.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội
An sinh xã hội là bảo đảm quyền con người, chăm lo mọi mặt cuộc sống của con người
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội, con người sinh ra có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại, con người còn có nhiều quyền chính trị, dân sự khác. Nói cách khác, an sinh xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là bảo vệ, đảm bảo quyền con người, là vì con người, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của con người. Xuyên suốt toàn bộ cuộc đời và tư tưởng cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt con người vào vị trí trung tâm, như Bác đã khẳng định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân” (1). Người từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (2). Đây là tư tưởng bao trùm triết lý về an sinh xã hội của Bác.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện an sinh xã hội tốt, vấn đề quan trọng nhất là phải chăm lo mọi mặt đời sống của người dân, cải thiện cuộc sống của người dân. Bác nhấn mạnh: “Phải luôn nhớ rằng: Điều quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân” (3). Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, độc lập gắn liền với việc quyền con người được bảo đảm, đời sống người dân được nâng cao. Bác đã từng nêu vấn đề, “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (4), “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Vì thế, Bác yêu cầu Đảng và Chính phủ phải “gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc” (5), Người nêu rõ: “Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành” (6).
An sinh xã hội hướng đến mọi tầng lớp, mọi nhóm người trong xã hội
Là sự kết tinh những giá trị nhân văn, nhân ái, tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội thể hiện rõ, tính rộng khắp, tính toàn dân của công tác an sinh xã hội. Người chủ trương xây dựng một xã hội được bảo đảm an sinh đối với tất cả các tầng lớp xã hội, đó là: “1. Thi hành luật lao động, ngày làm việc 8 giờ. 2. Giúp đỡ các gia đình đông con. 3. Lập ấu trĩ viên để chăm nom trẻ con. 4. Lập các nhà chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, thư viện để nâng cao trình độ trí dục cho nhân dân. 5. Lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão” (7).
Đồng thời, theo Người, công tác an sinh xã hội cần bảo đảm phù hợp với từng đối tượng cụ thể, vừa chăm lo đời sống, vừa tạo cơ hội để mọi người cùng phát triển, đóng góp cho đất nước. Bác căn dặn, đối với nông dân, Đảng và Chính phủ “miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất” (8); đối với phụ nữ, “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo” (9);… Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, an sinh xã hội cũng cần hướng đến “những nạn nhân của chế độ xã hội cũ” như các đối tượng trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu,… “Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện” (10). Nói cách khác, chính sách an sinh xã hội phải hướng đến mọi tầng lớp, mọi người, bảo đảm không bỏ sót bất kỳ đối tượng nào.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội, những năm qua, Đảng ta luôn nhất quán mục tiêu “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân” (11). Đảng cũng luôn xác định chính sách an sinh xã hội là chính sách chăm lo cho con người, vì con người; bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhằm làm cho mọi người dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;… con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (12).

Cùng với đó, vấn đề bảo đảm an sinh xã hội được thể hiện đồng bộ trong các nghị quyết của Đảng, hiến định trong Hiến pháp và được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Thống kê cho thấy, tỷ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội của Việt Nam đã tăng dần trong các năm qua, từ 2,85% GDP năm 2005 lên 4,14% GDP năm 2010 và 4,67% GDP năm 2011 và khoảng 6,7% GDP năm 2021 và khoảng 7% GDP năm 2023... Thành tựu nổi bật của Việt Nam trong bảo đảm an sinh xã hội được thế giới thừa nhận, đánh giá cao, là công tác xóa đói, giảm nghèo về đích trước thời hạn theo mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và Phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ gần 60% (năm 1986) xuống còn 1,93% (năm 2024), trở thành một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới áp dụng chuẩn nghèo đa chiều. GDP bình quân đầu người tăng từ 86 USD (năm 1986) lên 4.284 USD (năm 2023). Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân cũng ngày càng tốt hơn. Về giáo dục, từ năm 2015, trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99%; tỷ lệ này đối với cấp trung học cơ sở từ năm 2020 đã đạt trên 95%.
Ghi nhận những kết quả trong thực hiện an sinh xã hội của Việt Nam, Báo cáo Phát triển con người 2023/2024 (công bố ngày 14/3/2024) của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (giai đoạn 1990 - 2022) đã nhấn mạnh, giá trị chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng 50%, từ 0,492 lên 0,726, nằm trong nhóm nước có Chỉ số phát triển con người cao. Đặc biệt, theo Hạnh phúc Thế giới năm 2025 do Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố ngày 20/3 vừa qua, Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đã tăng 31 bậc, từ vị trí 77 (năm 2022), lên vị trí 46/143 quốc gia khảo sát và chỉ đứng sau Singapore tại khu vực Đông Nam Á.
Những kết quả nói trên không chỉ là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về an sinh xã hội trong điều kiện mới mà còn khẳng định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân; đồng thời, cũng là cơ sở để đấu tranh phản bác các luận điệu thù địch, phủ nhận hiệu quả công tác an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay.
Trung tá, Ths Ngô Văn Huynh - Trung tá Vũ Minh Thành
(Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng)
Tài liệu tham khảo:
(1), (2), (4), (5), (6). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.272, 187, 64, 64, 175.
(3). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.314.
(8), (9), (10). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.617, 617, 617
(7). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 632.
(11). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.47,
(12). Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 24.
Bình luận