Hội thảo thu hút sự quan tâm và tham dự của nhiều nhà lãnh đạo, chuyên gia và nhà khoa học đến từ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, cùng đại diện của nhiều cơ sở giáo dục đại học.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Minh Huấn, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED), đồng chủ trì hội thảo.
Phát biểu khai mạc và đề dẫn hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Minh Huấn, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhận định: Nhân loại đang chứng kiến sự bùng nổ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, và dữ liệu lớn, kéo theo sự biến đổi sâu sắc của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, cùng với sự phức tạp của các vấn đề toàn cầu như bất bình đẳng xã hội, biến đổi khí hậu, xung đột lợi ích, và bảo vệ giá trị nhân văn. Những thay đổi nhanh chóng này tạo ra không chỉ cơ hội mà còn đặt ra nhiều thách thức mới, đòi hỏi tư duy khoa học phải được đổi mới toàn diện cả về lý luận, phương pháp và cách tiếp cận. Trong bối cảnh đó, khoa học xã hội và nhân văn giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp con người hiểu chính mình, hiểu xã hội, hiểu động lực phát triển và các quy luật vận động của đời sống.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Minh Huấn nhấn mạnh: Càng trong thời đại chuyển đổi mạnh mẽ, chúng ta càng cần những nền tảng lý luận sâu sắc để định hướng sự phát triển, hoạch định chính sách, và đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và mang tính nhân văn. Nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn không chỉ là dựng xây tri thức mà còn là nền tảng để củng cố hệ giá trị, định hình tương lai, giữ gìn bản sắc và chủ động thích ứng với thế giới đang biến đổi.
“Ngày nay khi công nghệ phát triển mạnh mẽ, khi trí tuệ nhân tạo có thể mô phỏng ngôn ngữ, phân tích dữ liệu và hỗ trợ ra quyết định, giá trị khoa học xã hội và nhân văn càng trở nên không thể thay thế. Bởi vì những vấn đề căn cốt nhất như giá trị, đạo đức, chuẩn mực xã hồi năng lực tư duy, bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm chỉ có thể được lý giải và định hướng thông qua các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn mang tính nghiêm cẩn, chuẩn sát và sâu sắc. Công nghệ có thể giúp chúng ta đi nhanh hơn, nhưng minh triết nhân văn giúp chúng chúng đi xa hơn. Những phát minh khoa học và công nghệ vốn trung tính chỉ khi đi qua lăng kính quản trị và hệ giá trị của khoa học xã hội và nhân văn chúng mới trở thành lực lượng thúc đẩy tiến bộ”.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Minh Huấn cũng cho rằng: Trong bối cảnh mới, nghiên cứu cơ bản có bốn nhiệm vụ quan trọng: làm sáng tỏ những quy luật mới của đời sống xã hội; xây dựng hệ giá trị và bản sắc trong thời đại toàn cầu hóa; cung cấp nền tảng lý luận cho chiến lược phát triển quốc gia; và góp phần nhân văn hóa, phát triển công nghệ, đảm bảo công nghệ phải phục vụ con người, bảo vệ các giá trị đạo đức, củng cố sự phát triển hài hòa giữa công nghệ và xã hội. Nghiên cứu cơ bản không chỉ là nền móng của tri thức mà còn là sức mạnh mềm của quốc gia. Đầu tư cho nghiên cứu cơ bản chính là đầu tư cho phát triển, cho bản sắc, cho trí tuệ, cho năng lực tự cường dân tộc.
Tại hội thảo, các đại biểu tham luận chuyên sâu, khẳng định tầm quan trọng của khoa học xã hội và nhân văn trong kỷ nguyên số.
Trình bày tham luận với chủ đề "Nghiên cứu cơ bản và sứ mệnh phát triển nguồn lực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao; chính sách tài trợ cho khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn tới”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Cơ quan điều hành Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia chỉ ra một số thách thức trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn như: Số lượng nhà khoa học ít, chất lượng nghiên cứu và công bố quốc tế còn hạn chế, và sự gắn kết với thực tiễn quản lý nhà nước còn khá hạn chế. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Ngọc Chiến lưu ý lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đang “rất bối rối” về danh mục tạp chí để sử dụng, vì nhiều vấn đề của Việt Nam không được quốc tế đăng. Trước khó khăn này, Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia sẽ thúc đẩy việc tài trợ theo hướng ưu tiên nghiên cứu liên ngành gắn với các xu thế công nghệ mới và các công nghệ chiến lược:
“Vai trò của Quỹ thì chúng tôi mong muốn sắp tới sẽ đẩy mạnh các tài trợ cho nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội và nhận văn, tìm mọi cách, mọi hình thức để tuyên truyền thúc đẩy tăng số lượng và lượng của đề tài nghiên cứu cơ bả trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn; sẽ hỗ trợ nghiên cứu đẩy mạnh 12 đầu mục hoạt động nâng cao năng lực quốc gia tài trở thông qua Quỹ để thúc đầy các nhóm nghiên cứ trẻ, nghiên cứu mạnh và các tập thể nghiên cứu xuất sắc, khuyến khích nghiên cứu liên ngành và đổi mới sáng tạo, gắn với các xu thế công nghệ mới các công nghệ chiến lược mà Thủ tướng đã ban hành để thúc đẩy các nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn để đáp ứng tình hình mới".
Với tham luận "Thách thức và cơ hội của nghiên cứu cơ bản lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh chuyển đổi số", Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tài Đông, Viện trưởng Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhận định: Chuyển đổi số đang đặt khoa học xã hội và nhân văn trước cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống, đe dọa đến bản sắc và phương pháp luận của ngành. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tài Đông chỉ rõ các thách thức căn bản bao gồm nguy cơ lệ thuộc công cụ và suy giảm tư duy phê phán khi nhà nghiên cứu phó mặc các khâu trí tuệ cho các công cụ trí tuệ nhân tạo (AI), làm mất đi khả năng thấu hiểu sâu sắc. Bên cạnh đó, sự áp đặt mô hình định lượng dưới vỏ bọc dữ liệu lớn (Big Data) có thể làm suy giảm tư duy lý luận, khiến nghiên cứu chỉ trả lời câu hỏi “cái gì” mà bỏ qua câu hỏi “tại sao” về cơ chế nhân quả và ý nghĩa bản thể. Về cơ hội, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tài Đông nhấn mạnh chuyển đổi số mở ra khả năng cách mạng phương pháp với sự ra đời của Khoa học xã hội tính toán và nhân văn số; khẳng định khoa học xã hội và nhân văn có cơ hội tái khẳng định vị thế chiến lược, trở thành ngành sản xuất “phần mềm xã hội”.
“Nếu như khoa học tự nhiên và công nghệ tạo ra phần cứng của xã hội số (hạ tầng mạng, thiết bị điện tử, chip máy, tính thuật toán cơ bản… thì khoa học xã hội nhân văn chính là ngành công nghiệp sản xuất ra phần mềm trong ý nghĩa rộng nhất (đó là thể chế xã hội, luật pháp, đạo đức, chuẩn mực văn hóa và các mô hình quản trị hệ giá trị). Công nghệ có thể cho chúng ta khả năng làm nhiều điều, nhưng chỉ có tri thức nhân văn mới có thể trả lời chúng ta nên làm điều gì và tại sao. Và đây chính là lúc khoa học xã hội và nhân văn chuyển từ vị thế ngành không tạo ra giá trị kinh tế, thành ngành đầu tư hạ tầng chiến lược, tạo ra giả trị không thể đo đếm được".
Với tham luận "Hội nhập quốc tế và sứ mệnh của khoa học xã hội và nhân văn: Từ tiếp nhận tri thức đến đóng góp học thuyết Việt Nam", Tiến sĩ Đào Ngọc Báu, Viện trưởng Viện Chính trị và Quan hệ quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh luận giải, hội nhập quốc tế tạo ra sự tái cấu trúc sâu sắc không gian tri thức, nơi tri thức đã trở thành một dạng “quyền lực mềm” gắn chặt với năng lực định hình diễn ngôn và nâng cao vị thế quốc gia. Tuy nhiên, khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu vận hành trong vai trò người tiếp nhận tri thức, với năng lực sáng tạo lý luận và đóng góp học thuyết độc lập còn hạn chế, dẫn đến nguy cơ “lệ thuộc tri thức”. Vì vậy, sứ mệnh chiến lược của khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam là phải thực hiện bước chuyển đổi mang tính lịch sử từ vai trò thụ động sang chủ động, cụ thể là từ bản địa hóa tri thức tiến tới đóng góp học thuyết Việt Nam-một hệ thống lý luận khoa học có giá trị tham khảo quốc tế dựa trên thực tiễn đất nước.
Để hiện thực hóa sứ mệnh này, Tiến sĩ Đào Ngọc Báu đề xuất cần đổi mới căn bản cơ chế đầu tư và đánh giá khoa học theo hướng ưu tiên nghiên cứu lý luận nền tảng dài hạn (5-10 năm), đồng thời cải cách mạnh mẽ công tác đào tạo nguồn nhân lực theo hướng hình thành năng lực sáng tạo lý luận và tư duy phê phán./.
Hà Nam-VOV1
Bình luận