Dự án "Các Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Xanh" (GIC) do Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức tài trợ và triển khai trên lúa và xoài ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã giúp người dân thay đổi tư duy sản xuất theo hướng xanh, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, xây dựng hình ảnh nông sản Việt Nam tại các thị trường châu Âu, Mỹ.
Dự án là cam kết hỗ trợ của Chính phủ CHLB Đức đối với Việt Nam, hướng đến việc tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, cải tiến hệ thống canh tác theo hướng bền vững, tạo giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị nông sản chủ lực lúa gạo và xoài ở vùng ĐBSCL gồm 10 giải pháp. Trong đó, 6 giải pháp cho chuỗi giá trị lúa gạo và 4 giải pháp cho chuỗi xoài.
Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển Nông thôn, Bộ NN&MT, dự án đã thay đổi tư duy sản xuất, hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, khẳng định vị thế nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời, dự án là giải pháp hữu ích thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp của Việt Nam, đóng góp thiết thực trong triển khai thực hiện các Đề án 1 triệu hecta lúa đang triển khai ở ĐBSCL.
“Dự án đã phát hiện ra được giải pháp rất là phù hợp trong điều kiện định hướng phát triển sản xuất theo sản xuất bền vững, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thì các giải pháp này đều đáp ứng được yêu cầu của Bộ. Thứ hai dự án đã đào tạo, hỗ trợ nâng cao năng lực cho các bên để mà giúp đỡ cho các bên có thể tham gia hiệu quả vào chương trình này”.
Năm 2022, HTX nông nghiệp Tân Bình, tỉnh Đồng Tháp được dự án GIC đầu tư một máy trộn phân trị giá gần 500 triệu đồng. HTX đã khai thác các nguyên liệu sẵn có như rơm, phân bò và mụn dừa để sản xuất giá thể hữu cơ. Năm 2024, HTX sản xuất được 112 tấn giá thể hữu cơ, thu về 80 triệu đồng. Năm nay dự kiến sản xuất khoảng 200 tấn, số tiền thu về khoảng 120 triệu đồng. Ông Tạ Văn Bông, Giám đốc HTX cho biết, dự án đã giúp HTX tận dụng được các nguồn phụ phẩm sẵn có trên đồng ruộng để sản xuất nấm rơm, tạo thu nhập cho nông dân, góp phần thực hiện cam kết về giảm phát thải khí nhà kính.
“Dự án mang lại rất là to lớn trong nông nghiệp, dự án này HTX làm có một nguồn thu về tài chính, tận dụng hết phụ phẩm trên đồng ruộng làm được dự án giá thể hữu cơ. Giá thể hữu cơ này tăng độ xốp, giúp cho cây trồng phát triển rất tốt, góp phần chuyển đổi theo hướng hữu cơ trong tương lai thời gian tới, đó là một nhu cầu tất yếu”.
Vùng ĐBSCL cũng là trung tâm sản xuất thủy sản lớn nhất cả nước, chiếm khoảng 95% sản lượng cá tra và 70% sản lượng tôm. Tuy nhiên, khu vực này đang phải đối mặt với những tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là tình trạng xâm nhập mặn, xói lở bờ biển, sạt lở bờ sông, suy giảm nguồn tài nguyên nước làm tăng chi phí sản xuất, giảm năng suất, chất lượng, trực tiếp đe dọa đến sinh kế của hàng triệu người dân vùng ven biển. Chính vì thế, nuôi trồng thủy sản theo hướng xanh, tuần hoàn là xu thế tất yếu để đáp ứng những tiêu chuẩn, quy định của các nhà nhập khẩu.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), chuyển dịch theo hướng xanh, sản xuất tuần hoàn là xu thế của nhiều doanh nghiệp ngành thủy sản nhằm đáp ứng những đòi hỏi từ quy định, luật lệ, tiêu chuẩn về môi trường. Xu hướng nuôi trồng, chế biến thủy sản theo hướng giảm phát thải khí nhà kính giúp các doanh nghiệp đảm bảo các tiêu chí về môi trường, phù hợp với các yêu cầu của quốc tế.
TS Lê Quang Huy, Công ty Minh Phú cho biết, hiện nay Minh Phú đang tập trung vào các biện pháp y tế dự phòng như sử dụng chế phẩm sinh học và tăng cường hệ miễn dịch cho tôm, thay vì chờ đến khi dịch bệnh xảy ra rồi mới tìm cách điều trị. Cùng với đó, áp dụng mô hình nuôi tôm dưới sức tải của môi trường, giúp giảm áp lực lên hệ sinh thái. Đồng thời, ứng dụng các chế phẩm sinh học như vi khuẩn, tảo và đạm thủy phân để tạo ra môi trường nuôi tôm cân bằng và giàu dinh dưỡng, hạn chế sử dụng hóa chất.
“Giải pháp của Minh Phú thay vì những thức ăn độ đạm rất cao thì bổ sung vi sinh và enzyme lên men viên thức ăn đó, biến thành thức ăn siêu hấp thụ, khi hấp thụ được thì FCA sẽ giảm, cái quan trọng nhất là phân thải đến từ con tôm rất là nhiều vi sinh có lợi, nó không hại lại môi trường, thì bài toán xanh hóa vùng nuôi xuất hiện. Minh Phú hiện nay thu phân thải lại để biến thành hạt sinh học làm phân bón. Muốn làm xanh hóa vùng nuôi là phải làm một chuỗi liên kết chứ không thể mắt xích nào có thể làm được, thì Minh Phú hướng tới sử dụng chế phẩm sinh học là cái cốt lõi”.
Việt Nam có nhiều lợi thế trong mô hình tôm – lúa và nuôi tôm quảng canh để phát triển ngành tôm bền vững và hiệu quả. Ông Ngô Tiến Chương, Trưởng nhóm Thủy sản thuộc Tổ chức Hợp tác Quốc tế Ðức – GIZ cho biết, hiện nay mô hình tôm – lúa gồm doanh nghiệp thủy sản, doanh nghiệp lúa gạo và các cơ quan quản lý, đây là mô hình được đánh giá triển vọng và phù hợp với định hướng phát triển bền vững. Ngoài ra, mô hình nuôi tôm quảng canh là một trong những loại tôm đặc trưng của Việt Nam, được nuôi gần như tự nhiên. Sản phẩm thủy sản xanh không chỉ đáp ứng các yêu cầu pháp lý khắt khe mà còn tạo hình ảnh tích cực về trách nhiệm môi trường của doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng và đối tác quốc tế.
“Ở Việt Nam thì tôm - lúa là một trong những mô hình rất là đặc thù. Gần như không có nước nào có mô hình luân canh tôm - lúa như ở Việt Nam. Mô hình tôm - lúa thì chúng tôi có một hợp tác khá là lâu dài rồi và khá là triển vọng, chúng tôi đã ký cả doanh nghiệp thủy sản Minh Phú cũng như là doanh nghiệp lúa, Sở Nông nghiệp và Cục thì chúng tôi thực hiện, thì Minh Phú đã thực hiện thành công 696 ha chứng nhận được BAP ở trong vùng dự án này, đấy là cái chứng nhận đầu tiên. Cái bước tiếp theo chúng tôi đang hướng đến đấy là chứng nhận hữu cơ. Tuy nhiên, thì chứng nhận hữu cơ thì chúng ta mất rất nhiều thời gian để mà cải thiện được nó, thế nên chúng tôi rất là hy vọng cái này mô hình triển vọng thời gian tới”.
Thách thức của ngành tôm Việt Nam là biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn; chi phí sản xuất cao do quy mô nhỏ lẻ và hạ tầng hạn chế; sự cạnh tranh gay gắt từ các nước như Ấn Độ, Ecuador. Ngoài ra, rủi ro dịch bệnh và các rào cản thương mại ngày càng gia tăng. Hiện nay, xu hướng phát triển của ngành tôm toàn cầu là công nghệ nuôi trồng bền vững, chuyển đổi sang sản phẩm xanh, hữu cơ và giảm phát thải carbon và tăng cường truy xuất nguồn gốc.
Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến cho biết, ngành tôm Việt Nam đang bước vào giai đoạn cách mạng xanh với sự thay đổi mạnh mẽ về phương thức, mô hình sản xuất từ truyền thống sang sản xuất bền vững. Chuyển đổi xanh trong ngành thủy sản không chỉ đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường mà tạo dựng hình ảnh, trách nhiệm với đối tác quốc tế.
“Với nông nghiệp nói chung đi theo 3 hướng đồng bộ, đó là kinh tế tuần hoàn, đó là giảm phát thải, đó là chuyển đổi số. Chuyển ngành tôm theo hướng xanh hóa là hướng đi đúng đắn, chúng ta hội nhập ngày càng sâu vào các thị trường khó tính chúng ta bắt buộc phải thay đổi. Công nghệ quyết định vị thế quốc gia, quyết định vị thế của ngành nâng cao tôm Việt, chúng ta nghiên cứu về giống, về thức ăn dinh dưỡng về an toàn sinh học, về bệnh, về phương thức nuôi thì chúng ta phải tính đến công nghệ. Một chuỗi khép kín từ con giống, thức ăn, nuôi trồng, an toàn sinh học đến thu hoạch sơ chế, chế biến, truy xuất được nguồn gốc, an toàn thực phẩm”.
Với hơn 750.000 hecta nuôi tôm, sản lượng 1,3 triệu tấn mỗi năm, Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt lịch sử thay đổi để đáp ứng yêu cầu xanh, bền vững hoặc tụt lại phía sau.
Theo Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến 2050, Việt Nam đặt mục tiêu giảm ít nhất 15% cường độ phát thải khí nhà kính vào năm 2030 và hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Đây là cam kết mạnh mẽ được Thủ tướng Chính phủ khẳng định tại Hội nghị COP26 và tiếp tục được cụ thể hóa bằng hàng loạt chương trình hành động của các bộ, ngành, địa phương. Việt Nam đang bước vào giai đoạn tăng trưởng mới: phát triển nhanh hơn, nhưng phải bền vững hơn. Và nền kinh tế xanh chính là hướng đi tất yếu để bảo đảm tương lai an toàn, ổn định cho các thế hệ mai sau./.
Bình luận