Báo cáo tại buổi lễ cho biết: Việt Nam kỷ niệm 25 năm phê chuẩn Công ước số 182 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Đây là một dấu mốc quan trọng thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo vệ trẻ em khỏi bóc lột và bảo đảm các quyền của trẻ. Sự kiện này một lần nữa khẳng định nỗ lực bền bỉ của Việt Nam trong công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội bao trùm và bền vững, phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế.
Kể từ khi phê chuẩn Công ước số 182 vào năm 2000, Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng trong công tác phòng ngừa và chấm dứt lao động trẻ em, bao gồm cả các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Thông qua việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, triển khai các chương trình quốc gia và tăng cường phối hợp giữa các ngành, và tại các cấp, Việt Nam đã củng cố hệ thống bảo vệ trẻ em, mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục và tăng cường việc theo dõi, giám sát tình trạng trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế. Với vai trò là Quốc gia Tiên phong trong Liên minh 8.7, Việt Nam tiếp tục cho thấy sự chủ động và tinh thần trách nhiệm của quốc gia trong nỗ lực toàn cầu nhằm chấm dứt lao động trẻ em.
Một động lực quan trọng tạo nên những kết quả này là Chương trình Quốc gia về Phòng ngừa và Giảm thiểu Lao động Trẻ em giai đoạn 2021–2025, định hướng đến năm 2030, với trọng tâm là phòng ngừa, phát hiện sớm và xây dựng các giải pháp bền vững cho các nhóm trẻ dễ bị tổn thương. Chương trình gắn kết chặt chẽ công tác phòng ngừa lao động trẻ em với các chính sách về giáo dục, giảm nghèo, an sinh xã hội và việc làm, qua đó hình thành một cách tiếp cận toàn diện nhằm bảo vệ quyền trẻ em.
Những tiến bộ rõ rệt trong hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng đã được ghi nhận. Theo các cuộc điều tra quốc gia do Cục Thống kê thực hiện với sự hỗ trợ của ILO, tỷ lệ trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế đã giảm từ 9,1% năm 2018 xuống còn 3,5% vào năm 2023. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 94.300 trẻ em đang làm các công việc có tính chất nguy hiểm, và gần 12 trên mỗi 100 trẻ em trong lao động trẻ em phải đối mặt với các rủi ro ảnh hưởng đến sức khỏe.
Bà Sinwon Park, Giám đốc Quốc gia ILO tại Việt Nam đánh giá:
“Trong suốt 1/4 thế kỷ vừa qua, những thành tựu đật được những năm qua là thành quả và nỗ lực không ngừng nghỉ của các đối tác 3 bên của VN. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) rất vinh dự được đồng hành cùng chặng đường này, đặc biệt là thông qua Dự án hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quốc gia trong phòng, chống và giảm thiểu lao động trẻ em tại Việt Nam (gọi là Dự án Enhanced), dự án đã tăng cường hệ thống quốc gia trong việc phòng ngừa nhận diện, chuyển tuyến và khắc phục tình trạng lao động trẻ em. Các cuộc khảo sát quốc gia về lao động, trẻ em năm 2012, 2018 và 2023 được thực hiện với Bộ Nội vụ, Tổng cục Thống kê và các đối tác xã hội đã tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu của Việt Nam trong việc xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng”.
Bà Sinwon Park cũng nhấn mạnh: Chấm dứt lao động trẻ em không chỉ là bảo vệ quyền của trẻ em, mà còn là đầu tư cho lực lượng lao động tương lai và tăng trưởng kinh tế bao trùm của Việt Nam. Khi trẻ em được đến trường và phát triển kỹ năng, khi người lớn có việc làm thỏa đáng và năng suất, lợi ích sẽ lan tỏa tới gia đình, doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Chấm dứt lao động trẻ em chính là một khoản đầu tư chiến lược cho giá trị và sự bền vững của tương lai kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, việc tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành và chính quyền địa phương đã đóng vai trò then chốt. Các cơ chế phối hợp liên ngành được củng cố đã hỗ trợ hiệu quả hơn cho công tác thanh tra lao động, thực thi pháp luật và các dịch vụ hỗ trợ, chuyển tuyến đối với trẻ em có nguy cơ. Nhiều hoạt động nâng cao năng lực đã giúp cải thiện nhận thức của thanh tra lao động, cán bộ địa phương, người sử dụng lao động và cộng đồng về trách nhiệm pháp lý cũng như tầm quan trọng của bảo vệ trẻ em.
Các cơ quan hữu quan nhấn mạnh, trong thời gian tới, việc chấm dứt lao động trẻ em đòi hỏi sự quan tâm và giám sát thường xuyên, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào các chuỗi cung ứng. Trẻ em trong các hộ gia đình dễ bị tổn thương - chịu tác động của nghèo đói, di cư, biến đổi khí hậu, việc làm phi chính thức và hạn chế trong tiếp cận dịch vụ – sẽ tiếp tục là nhóm ưu tiên trong các nỗ lực can thiệp.
Bà Nguyễn Thị Nga, Phó Cục Trưởng Cục Bà mẹ và Trẻ em, Bộ Y tế, nêu rõ: Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm chung của gia đình, cộng đồng, các cơ quan nhà nước, người lao động, người sử dụng lao động và doanh nghiệp. Không một chủ thể đơn lẻ nào có thể tự mình chấm dứt lao động trẻ em. Điều này đòi hỏi sự chung tay của tất cả các bên – từ tăng cường các chính sách an sinh xã hội cho các gia đình dễ bị tổn thương, đến thực thi pháp luật và nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp. Chỉ có sự chung tay mới có thể tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển lâu dài và lành mạnh của các thế hệ tương lai:
“Việt Nam luôn có quan điểm và chính sách nhất quán về quyền trẻ em. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được coi là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Kết quả điều tra cho thấy, Việt Nam có những bước tiến bộ đáng kể trong việc ngăn ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em và đã hỗ trợ nhóm trẻ em tham gia lao động được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là tiếp cận về giáo dục, chăm sóc sức khỏe, bảo vẹn trẻ em để các em không bị bóc lột sức lao động".
Trong bối cảnh chuyển đổi số, những rủi ro mới như bóc lột trẻ em trên môi trường mạng đang xuất hiện song song với các yếu tố dễ tổn thương hiện hữu như nghèo đói, di cư và việc làm phi chính thức. Điều này đòi hỏi các hệ thống bảo vệ trẻ em phải có khả năng ứng phó hiệu quả cả trên môi trường trực tuyến và ngoại tuyến, dựa trên phòng ngừa, giáo dục và thực thi và tuân thủ pháp luật hiệu quả. Để hiện thực hóa mục tiêu chung này và thúc đẩy đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế chất lượng cao, Việt Nam cần tiếp tục đặt trọng tâm vào việc bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em thông qua các chương trình tiếp cận lồng ghép, bao gồm cả giáo dục và an sinh xã hội.
Ông Lý Phát Việt Linh, Quyền Phó Trưởng Đại diện UNICEF tại Việt Nam cho rằng: Mỗi trẻ em đều có quyền được hưởng một tuổi thơ an toàn và có cơ hội học tập, phát triển. Phòng ngừa lao động trẻ em bắt đầu từ việc bảo vệ trẻ em khỏi các nguy cơ gây hại, bảo đảm mọi trẻ em đều được tiếp cận giáo dục và các dịch vụ xã hội, đồng thời các gia đình trong hoàn cảnh dễ bị tổn thương nhận được sự hỗ trợ kịp thời để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo đói:
“Tin vui là lao động trẻ em có thể phòng ngừa được nếu chúng ta tiếp cận vấn đề một cách toàn diện và dài hạn. Điều này đòi hỏi trước hết việc phòng ngừa và giảm thiểu lao động trên em cần được đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; cần ưu tiên đầu tư vào chương trình hỗ trợ sinh kế và việc làm, tạo cơ hội cho cha mẹ có việc làm và thu nhập ổn định. Trẻ em đủ độ tuổi được lao động và các hoạt động tạo thu nhập an toàn bền vững, đảm bảo sự phát triễn của em. Thứ hai, giáo dục là yếu tố cốt lõi của giải pháp. Chúng ta cần đảm bảo rằng trẻ em có nguy cơ tham gia lao động hoặc đang tham gia lao động được tiếp cận với các cơ hội học tập, được giáo dụng có chất lượng để thoát khỏi và không bị rơi vào tình trạng lao động trẻ em. Thứ ba, nỗ lực giải quyết vấn đề lao động trẻ em phải là một hợp phần không thể thiếu trong việc tăng cường hệ thống bảo vệ trẻ em. Chúng ta cần đầu tư đủ nguồn lực ở cấp quốc gia, địa phương để tăng cường nguồn nhân lực dịch vụ, bảo vệ trẻ em; tích hợp bên cạnh giáo dục, trao quyền cho trẻ em”.
ILO, UNICEF và Liên Hợp Quốc tại Việt Nam tái khẳng định cam kết đồng hành cùng Việt Nam trong việc triển khai các chương trình quốc gia và tăng cường thực thi pháp luật lao động và xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng Chương trình quốc gia về phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2026–2030, dấu mốc 25 năm này là cơ hội quan trọng để thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình thực hiện Mục tiêu Phát triển Bền vững 8.7 – chấm dứt lao động trẻ em dưới mọi hình thức.
Hà Nam-VOV1
Bình luận