Nghệ thuật Điện ảnh Việt Nam về đề tài chiến tranh đã đồng hành cùng lịch sử của toàn dân tộc và trở thành Di sản với giá trị về nội dung cùng nghệ thuật thể hiện. Nhấn mạnh việc khai thác, phổ biến, bảo tồn và lan tỏa giá trị lịch sử và văn hóa của những thước phim, clip, hình ảnh, tư liệu thời chiến…Bà Nguyễn Thị Thúy Hà, phó Viện trưởng Viện phim Việt Nam cho biết: “Đây là dịp để Viện phim Việt Nam tuyên truyền quảng bá những tư liệu điện ảnh đang lưu trữ tại kho của Viện phim. Các phim đang lưu trữ tại Viện có rất nhiều phim thời kỳ chống Mỹ của các đơn vị sản xuất phim của Nhà nước cũng như các đơn vị sản xuất phim tư nhân. Tôi rất mong các bộ phim đang lưu trữ sẽ được đưa ra công chúng để mọi tầng lớp được thưởng thức các tác phẩm điện ảnh giá trị cao.”


Bên cạnh việc nhấn mạnh vai trò của công tác lưu trữ, khai thác và phổ biến giá trị các bộ phim tài liệu, phim truyện nói chung và phim về đề tài chiến tranh nói riêng, hội thảo còn đề cập đến những di sản Điện ảnh trên hành trình hợp tác văn hóa Việt Nam - Mỹ, sự dịch chuyển quan trọng trong cách hai nền văn hóa tiếp cận và kiến tạo hình ảnh lẫn nhau.

Sự thay đổi được thể hiện rõ nét, từ những bộ phim chiến tranh đầy đối kháng như Apocalypse Now (1979), Platoon (1986)... hay Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1973), Cánh đồng hoang (1979)... đến các tác phẩm đương đại có yếu tố hợp tác xuyên quốc gia như The Third Wife (Người vợ ba - 2018), Đập cánh giữa không trung (2014) hay các dự án phim tài liệu Việt - Mỹ hậu chiến. Sự dịch chuyển không chỉ nằm ở nội dung phim hay hình thức biểu đạt, mà còn phản ánh sự thay đổi trong chính sách văn hóa đối ngoại, cách hai bên đón nhận những ký ức lịch sử thông qua màn ảnh.
TS Hà Thanh Vân, Trung tâm xúc tiến Văn hoá nghệ thuật Việt Nam- Copac cho rằng: “Tôi nghĩ điện ảnh không chỉ là nghệ thuật tổng hợp mà còn là các phương tiện truyền thông đại chúng, tuyên truyền và tác động đến công chúng. Những tác phẩm nghệ thuật có thể kết nối với tinh thần, giúp kết nối và giúp kết nối sự hiểu biết lẫn nhau giữa người Việt Nam và người Mỹ. Tôi cho rằng từ những tác phẩm đó có thể hứa hẹn kết nối xa hơn, chúng ta không chỉ dừng lại ở những bộ phim hợp tác mà chúng ta có thể kết nối, giao lưu hợp tác trên nhiều lĩnh vực, từ lưu trữ phim hội thảo như chúng ta đang chứng kiến, từ các dự án đầu tư và thậm chí là liên kết đào tạo giảng dạy, trao đổi văn hóa.”

Tại hội thảo, một số chuyên gia cũng cho rằng, sự hợp tác điện ảnh Việt- Mỹ nhiều năm qua là minh chứng sống động cho khả năng đối thoại ký ức, giao lưu văn hóa và tái thiết bản sắc trong một thế giới hậu xung đột. Tuy nhiên, để quá trình hợp tác này trở thành một hành trình bền vững cần có những chính sách và hoạt động cụ thể, như thiết lập cơ chế hợp tác lưu trữ và phục dựng phim song phương; xây dựng không gian trình chiếu và thảo luận phim chuyên đề; tăng cường trao đổi đào tạo và hỗ trợ sản xuất độc lập giữa hai nước./.
Bình luận