Trong những năm qua, ngành chăn nuôi nước ta đã có sự đóng góp quan trọng vào nền sản xuất nông nghiệp của đất nước. Trong thời kỳ chiến tranh đến giai đoạn đất nước đổi mới, các sản phẩm chăn nuôi đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, thực phẩm cho nhân dân. Ngành chăn nuôi cũng đã chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình chăn nuôi nhỏ, lẻ theo nông hộ đã chuyển sang các mô hình chăn nuôi trang trại, tập trung quy mô lớn. Các giống mới, kỹ thuật mới trong chăn nuôi và thú y đã được đưa vào sản xuất trên khắp cả nước. Nhân kỉ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh (02/09/1945 – 02/09/2025), phóng viên Đài TNVN có cuộc trao đổi với Tiến sỹ Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội chăn nuôi Việt Nam về những nội dung này.

Phóng viên: Thưa ông, trong 80 năm xây dựng, bảo vệ đất nước và phát triển đất nước ngành Chăn nuôi và Thú y đã có những đóng góc quan trọng. Vậy thưa ông, những đóng góp này cụ thể là như thế nào?
Ông Nguyễn Xuân Dương: Thứ nhất là ngành Chăn nuôi và thú y đã đạt được các mục tiêu và các mục đích lớn của ngành chăn nuôi đối với đất nước, đối với ngành nông nghiệp, đối với nông dân Việt Nam. Thứ nhất là đã bứng cơ bản các loại thực phẩm thiết yếu cho tiêu dùng của xã hội, đặc biệt là những năm tháng chiến tranh.
Thời tôi còn nhỏ đã nghe rồi, thóc thì không thiếu một cân, quân không thiếu một người, thì với ngành chăn nuôi chính là cung cấp một phần các loại thực phẩm cho người dân, các chiến sỹ trong giai đoạn kháng chiến. Còn khi hòa bình lập lại, ngành chăn nuôi đã đáp đứng cơ bản các thực phẩm thiết yếu cho tiêu dùng trong nước và ngày càng phát triển với các loại thịt, các loại trứng gia cẩm và một phần sữa. Trong đó, những năm gần đây, ngoài đáp ứng đủ nhu cầu cho tiêu dùng trong nước rồi, thì đang gia tăng xuất khẩu.
Vấn đề thứ hai là đáp ứng nguồn là phân bón hữu cơ có giá trị cho ngành trồng trọt. Đặc biệt là ngành trồng lúa và trồng cây ăn trái. Ngày xưa mà không có phân chuồng, chúng ta không thể có năng suất lúa ổn định để cung cấp lương thực cho chiến trường. Đến hiện nay, thời kỳ mà chúng ta thâm canh cây ăn trái, thì chính nguồn phân hữu cơ bắt đầu từ phân chuồng là nguồn dinh dưỡng quan trọng
Vấn đề thứ ba các sản phẩm chăn nuôi cũng là một phần nguyên liệu cho công nghiệp. Công nghiệp chế biến da và lông. Vấn đề thứ tư, tôi cho là ngành chăn nuôi là một trong những ngành, những lĩnh vực đóng góp rất lớn hơn vào gia tăng thu nhập cho người nông dân. Cụ thể là trong chương trình xoá đói giảm nghèo ở các tỉnh vùng cao, với những đồng bào dân tộc ít người. Trong các chương trình khuyến nông, trong các chương trình xoá đói giảm nghèo, thì mô hình chăn nuôi có hiệu quả nhất.

Phóng viên: Thưa ông, bên cạnh những đóng góp quan trọng đó, trong quá trình đổi mới của đất nước, thì ngành Chăn nuôi và Thú y đã có những bước đổi mới như thế nào?
Ông Nguyễn Xuân Dương: Nếu mà nói về đổi mới, thì tôi cho là ngành Chăn nuôi và Thú y là một trong những ngành có sự đổi mới nhanh và toàn diện. Tôi có thể đưa ra đây một số những dẫn chứng.
Thứ nhất là một ngành phát triển rất là toàn diện. Toàn diện ở đây đã được thể hiện ngay trong luật Chăn nuôi và Thú Y đã khẳng định rằng chăn nuôi là một ngành kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Kinh tế là đóng góp về vấn đề kinh tế. Vấn đề kỹ thuật là áp dụng rất nhiều những thành tựu học công nghệ vào để đưa năng suất chăn nuôi của chúng ta phát triển cùng với các nước trong khu vực thế giới. Thứ ba đó có tính với xã hội, giải quyết về việc làm, giải quyết về thu nhập, giải quyết về vấn đề an sinh xã hội. Ngành chăn nuôi cũng đã tham gia và toàn diện.
Vấn đề thứ hai là sự đa dạng. Chăn nuôi của Việt Nam chúng ta bây giờ không còn một loại vật nuôi nào trên thế giới có mà chúng ta không có. Tiếp đó là các loại hình chăn nuôi chúng ta đều có. Trước kia là 100% các sản phẩm chăn nuôi đều ở khu vực trăn nuôi nông hộ. Sau đó chúng ta có tỉ lệ 50-50, đến bây giờ 60% là chăn nuôi trang trại, chăn nuôi tập trung, chăn nuôi công nghiệp. Và chỉ còn có 40% đó là chăn nuôi nông hộ. Rõ ràng là phương thức trăn nuôi của chúng ta thay đổi lớn, đa dạng và toàn diện.
Vấn đề tiếp theo là nhiều lĩnh vực chăn nuôi của chúng ta đã đạt vị trí rất là cao ở trong khu vực và trên thế giới. Trong quá trình phát triển hội nhập 40 năm qua, đàn lợn của Việt Nam đã đứng thứ 6 trên thế giới và đứng thứ 2 trong các nước châu Á. Đàn thủy cầm đứng thứ 2 về số lượng trên thế giới. Công nghiệp sản xuất và chế biến thức ăn chăn nuôi, công nghiệp chế biến sữa của chúng ta bây giờ đứng thứ nhất trong các quốc gia Đông Nam Á. Công nghiệp thức ăn chăn nuôi của chúng ta có xuất phát điểm chậm hơn so với những nước trong khu vực nhưng hiện nay hầu hết các tập đoàn lớn về chăn nuôi của các nước trên thế giới đã đầu tư vào Việt Nam để sản xuất thức ăn chăn nuôi . Những công nghệ hiện đại và tiến tiến nhất đều có mặt ở Việt Nam và chúng ta có sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp đứng số 1 trong các nước Đông Nam Á.
Vấn đề thứ ba là công nghệ. Chúng ta có rất nhiều đổi mới. Cụ thể, ngành chăn nuôi nước ta đang áp dụng nhiều các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới về giống mới, về công nghệ sản xuất thuốc thú y. Ví dụ, đa số các cơ sở sản xuất thuốc và vắc xin trong thú y của Việt Nam đã đạt các tiêu chí, chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế là GMP và GMP-WHO của tổ chức y tế thế giới, với dây chuyển sản xuất rất tiên tiến. Các sản phẩm thuốc thú y của chúng ta bây giờ đã xuất khẩu tới 45 đến 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Về giống vật nuôi, đa số các trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi đã sử dụng các giống vật nuôi cao sản, chất lượng cao.
Vấn đề thứ ba nữa là đổi mới là hội nhập. Trong những ngành kinh tế, trong nông nghiệp thì ngành Chăn nuôi và Thú y có độ mở và tính hội nhập rất là cao. Chính vì thế thì chúng ta tranh thủ được các yếu tố về khoa học công nghệ của thế giới.

Phóng viên: Thưa ông, xin ông cho biết những chủ trương chính sách lớn của nhà nước đã có tác động như thế nào đến quá trình phát triển ngành chăn nuôi?
Ông Nguyễn Xuân Dương: Tôi cho đấy là một vấn đề quan trọng. Bởi vì có những thành tựu ngành Chăn nuôi và Thú y như tôi nói ở phần trên. Các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước chúng ta rất là phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của ngành Chăn nuôi và Thú y . Đơn cử tôi xin nêu ra, thứ nhất là Đảng và Nhà nước chúng ta vẫn xác định được vai trò quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc gia. Xác định nông nghiệp là lợi thế quốc gia. Đấy là một cái mà tôi đã bao trùm toàn bộ các chính sách khác để xác định là vai trò quan trọng của ngành nông nghiệp, trong đó có lĩnh vực chăn nuôi.
Vấn đề thứ hai, trong giai đoạn đổi mới, chúng ta vẫn xác định được là phải đưa sản xuất trang nuôi là ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Minh chứng là hiện nay ngành chăn nuôi đang chiếm từ 27%-28% giá trị sản xuất trong nông nghiệp. Những lĩnh vực ngành chăn nuôi trong giai đoạn đầu thập niên 80, 90 của thế kỷ 20 còn chậm phát triển như: con giống, nguyên liệu thức ăn, nguyên liệu thuốc thú y, thì nhà nước đã có chính sách đưa thuế về 0%. Nhiều loại phí trong lĩnh vực chăn nuôi cũng đã được các cơ quan chức năng điều chỉnh giảm xuống
Vấn đề thứ ba là có nhiều chính sách rất là kịp thời. Tôi chỉ nêu ra trong lĩnh vực chăn nuôi. Ví dụ như là chương trình Shin hóa đàn bò, nạc hóa đàn lợn, chương trình phát triển bò sữa, chương trình gà siêu thịt, gà siêu trứng, vịt siêu thịt, vịt siêu trứng, chương trình giống cây trồng vật nuôi, chương trình khuyến nông, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình tam nông, và chương trình xây dựng nông thôn mới. Đây là những chương trình có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của lĩnh vực Chăn nuôi và Thú y.
Phóng viên: Thưa ông, trong giai đoạn tới đây, theo ông, những người nông dân, những, những doanh nghiệp trong lĩnh vực Chăn nuôi và Thú y cần phát huy nội lực như thế nào và cần hỗ trợ những gì tiếp bước cùng với hành trình phát triển của ngành nông nghiệp?
Ông Nguyễn Xuân Dương: Tôi cho rằng để ngành Chăn nuôi và Thú y phát triển bền vững cần quan tâm tới mấy vấn đề như sau.
Thứ nhất về vấn đề là nhà nước và các cơ quan chức năng thì phải rà soát điều chỉnh lại quy hoạch trân nuôi của chúng ta phù hợp với yêu cầu hội nhập phù hợp với biến đổi khí hậu trong đó phải tính đến các yếu tố xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm Chăn nuôi. Tại sao tôi nói như vậy? Vì chúng ta làm chiến lược cách đây 10 năm và 20 năm thì nhìn chung là chúng ta quan tâm nhiều đến vấn đề là sử dụng lợi thế so sánh trong nước của chúng ta và chúng ta đưa ra.Vì vậy, các cơ quan nhà nước chúng ta phải rà soát điều chỉnh quy hoạch chăn nuôi tính đến vấn đề xuất nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi theo lợi thế so sánh. Cái nào ta lợi thế thì ta phát triển, còn lại không lợi thế chúng ta phải nhập đó là cái thứ nhất.
Thứ hai là nhà nước phải dùng cái nguồn lực ưu tiên cho quản lý dịch bệnh quản lý giết mổ và đào tạo nguồn nhân lực.Vì sao tôi nói như vậy vì dịch bệnh không thể các doanh nghiệp là một mình làm được. Và hai là vấn đề giết mổ tập trung, đúng quy định của pháp luật đang có tỉ lệ thấp, rất cần sự vào cuộc của cơ quan chức năng chính quyền địa phương.
Thứ ba là nguồn nhân lực thì rất cần các cơ quan nhà nước hỗ trợ đầu tư đào tạo lực lượng lao động chuyên nghiệp trong ngành chăn nuôi và Thú y, hướng dẫn tập huấn kỹ thuật công nghệ cho người chăn nuôi nhỏ lẻ, trang trại. Tiếp đó cần tiếp tục khuyến khích phát triển các cái mô hình chăn toàn sinh học, thân thiện với môi trường.
Còn với những người chăn nuôi, các doanh nghiệp cần phát huy nội lực, tiến hành tổ chức sản xuất theo các chuỗi liên kết trong đó phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp của hợp tác xã, các hiệp hội ngành hàng. Từ đó đưa các nông hộ chăn nuôi nhỏ, lẻ vào các chuỗi liên kết đó, làm sao mỗi một cái lĩnh vực ngành hàng của chúng ta như là thịt lợn, thịt da cầm, trứng gia cầm sữa, ít nhất là mỗi một cái nhóm mặt hàng này phải có từ 5 đến 7 các cái chuỗi lớn để cùng với nhà nước điều tiết được thị trường các sản phẩm chăn nuôi trong thời gian tới. Từ các chuỗi này, các doanh nghiệp, hợp tác xã, người chăn nuôi cần chủ động ứng dụng các công nghệ mới trong chăn nuôi, như: chăn nuôi trong chuồng kín, tự động, tuần hoàn, hữu cơ để có được những sản phẩm sạch, an toàn cung cấp đến tay người tiêu dùng.
Xin cảm ơn ông!
Bình luận