Hội nghị do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Tỉnh ủy: Tuyên Quang, Vĩnh Long; Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam; Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam; Hội Xã hội học Việt Nam tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, nhằm góp phần phục vụ xây dựng báo cáo tham mưu cho Đảng và Nhà nước về tiếp tục đổi mới chính sách đối với công tác cán bộ nữ. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Minh Huấn, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị tại điểm cầu Hà Nội.
Phát biểu khai mạc và báo cáo đề dẫn Hội nghị, PGS.TS Đoàn Minh Huấn cho biết: Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định công tác cán bộ nữ là một phần đặc biệt quan trọng trong tổng thể công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước, nhất là trong giai đoạn cả đất nước đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Việc xây dựng và phát triển một đội ngũ cán bộ nữ đông đảo, vững vàng, có chất lượng, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến thành công của sự nghiệp cách mạng của cả nước nói chung, trong đó có tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Vĩnh Long nói riêng. Việc đảm bảo sự tham gia thực chất, hiệu quả của cán bộ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý các cấp không chỉ để thực hiện nguyên tắc bình đẳng giới mà còn là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển bền vững và bao trùm mà Việt Nam theo đuổi. Trên nền tảng tư tưởng đó, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về bình đẳng giới như: Luật Bình đẳng giới (2006); Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (2007) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp (2015); Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và 2021–2030; Chỉ thị số 21-CT/TW (2018) của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới; và gần đây là Chương trình hành động "Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách giai đoạn 2021 - 2030" năm 2020 của Thủ tướng chính phủ. Đồng thời Việt Nam cũng tham gia nhiều công ước quốc tế về bình đẳng giới. Hệ thống văn bản trên không chỉ tạo ra hành lang pháp lý tương đối đầy đủ mà còn đặt ra yêu cầu nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội về vai trò, vị trí của phụ nữ và công tác cán bộ nữ trong bối cảnh hiện nay.
Thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ nữ, với sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, thời gian qua, công tác phát triển đội ngũ cán bộ nữ nói chung và sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý nói riêng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ nữ tiếp tục được quan tâm quy hoạch, đào tạo và tạo điều kiện để tham gia cấp ủy, chính quyền các cấp. Trong nhiệm kỳ 2020–2025, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy và chính quyền các cấp đều tăng so với nhiệm kỳ trước, phản ánh những nỗ lực cải thiện về thể chế, nhận thức và hành động trong toàn hệ thống chính trị. Các đồng chí nữ cán bộ, lãnh đạo đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, không ngừng học tập, rèn luyện, khẳng định năng lực, bản lĩnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, góp phần tích cực vào sự phát triển của địa phương và đất nước.
Những tiến bộ trong thúc đẩy bình đẳng giới nhất là trong lĩnh vực chính trị của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Theo Báo cáo Khoảng cách giới toàn cầu năm 2024 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Việt Nam xếp hạng 72 trên 146 quốc gia, tăng 11 bậc so với năm 2022, cho thấy sự cải thiện đáng kể trong các chỉ số về bình đẳng giới, trong đó có lĩnh vực phụ nữ tham chính.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ, các báo cáo của Đảng và Nhà nước đều chỉ ra rằng Việt Nam chưa đạt các chỉ tiêu về tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong khu vực công; tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy và hội đồng nhân dân các cấp có sự gia tăng nhưng còn thấp so với yêu cầu, chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của phụ nữ. Việc triển khai Chỉ thị 21-CT/TW ở một số nơi còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu; nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền về bình đẳng giới chưa đầy đủ; việc bố trí, sắp xếp công tác cho cán bộ nữ chưa thực sự phù hợp nên chưa phát huy được năng lực, sở trường của cán bộ nữ, chưa tạo điều kiện để cán bộ nữ vươn lên. Điều đó đã phần nào hạn chế sự đóng góp của cán bộ nữ vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Trong năm 2025, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã phối hợp chặt chẽ với hai địa phương là Tuyên Quang và Vĩnh Long cùng các đối tác tiến hành nghiên cứu khảo sát thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Việc lựa chọn mẫu nghiên cứu tại tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Vĩnh Long-đại diện khu vực miền núi phía bắc và đồng bằng sông Cửu Long góp phần làm rõ ảnh hưởng từ các yếu tố văn hóa địa phương; đặc điểm vùng, miền đến sự tham chính của phụ nữ. Từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị các cấp, các vùng trên phạm vi cả nước.
“Kết quả nghiên cứu cho thấy, với quyết tâm chính trị cao, Tuyên Quang và Vĩnh Long đã đạt được kết quả đáng khích lệ trong công tác cán bộ nữ. Cả Tuyên Quang và Vĩnh Long đã có cán bộ nữ tham gia Ban Thường vụ Tỉnh ủy với tỷ lệ đạt 22,7% tại Tuyên Quang và 13,6% tại Vĩnh Long. Ở cấp xã, nhiều đồng chí nữ được tín nhiệm giao giữ các vị trí chủ chốt, trong đó Vĩnh Long có 25% bí thư xã/phường là nữ, Tuyên Quang đạt 16,9%. Ở cấp tỉnh, tỷ lệ lãnh đạo là nữ cũng có nhiều chuyển biến tích cực: trưởng các sở, ban, ngành là nữ chiếm 31,3% tại Vĩnh Long và 21,4% tại Tuyên Quang; lãnh đạo HĐND tỉnh là nữ chiếm 25% tại Vĩnh Long và 50% tại Tuyên Quang".
PGS.TS Đoàn Minh Huấn cũng khẳng định: Những kết quả vừa nêu cho thấy sự nỗ lực không ngừng của các địa phương trong việc cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả các mục tiêu về bình đẳng giới, đồng thời khẳng định vai trò, vị thế ngày càng rõ nét của đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị ở địa phương.
Tuy nhiên, công tác phát triển đội ngũ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý đối với Vĩnh Long và Tuyên Quang hiện nay vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý tại một số địa phương, nhất là ở Vĩnh Long, vẫn chưa đạt yêu cầu. Sự phân bổ cán bộ nữ giữa các cấp, các địa bàn còn chưa đồng đều. Ở một số cấp ủy cơ sở, công tác phát hiện, tạo nguồn và quy hoạch cán bộ nữ chưa được triển khai quyết liệt, thiếu kế hoạch dài hạn và cơ chế linh hoạt để khuyến khích nữ cán bộ trẻ rèn luyện, thử thách trong thực tiễn. Nhiều trường hợp nguồn nhân lực nữ tiềm năng chưa được nhận diện kịp thời để đưa vào quy hoạch và bổ nhiệm. Bên cạnh yếu tố thể chế, định kiến giới vẫn là một rào cản lớn. Việc đánh giá chưa công bằng về năng lực lãnh đạo của phụ nữ, cùng quan niệm truyền thống về vai trò giới ảnh hưởng không nhỏ đến cơ hội phát triển nghề nghiệp của cán bộ nữ. Một số cán bộ nữ cũng chưa mạnh dạn bứt phá, còn tự ti, chưa có chiến lược phát triển cá nhân rõ ràng.
Tại hội nghị, bà Ramla Khalidi, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đánh giá cao những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam cũng như nỗ lực của các Tỉnh ủy Tuyên Quang và Vĩnh Long trong việc tạo điều kiện thuận lợi trong phát triển đội ngũ nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bà Ramla Khalidi cho rằng: Việc tinh gọn bộ máy của Việt Nam đang mang lại những tiêu chuẩn cao hơn, kỳ vọng lớn hơn; giai đoạn này là một chương quyết định trong phát triển đất nước, nơi người phụ nữ được tham gia bộ máy chính quyền không chỉ với vai trò lãnh đạo mà còn góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Đồng quan điểm này, Đại sứ Ireland tại Việt Nam Deirdre Ní Fhallúin cho rằng: Sự tiến bộ về năng lực, tầm nhìn của lãnh đạo nữ hai địa phương Vĩnh Long và Tuyên Quang là những điểm sáng, kinh nghiệm quý báu cần được đúc rút thành mô hình nhằm nhân rộng trong cả nước.
Tại Hội nghị, các đại biểu tập trung thảo luận, đánh giá toàn diện các nội dung trong báo cáo “Tăng cường vai trò lãnh đạo của cán bộ nữ trong chính quyền địa phương: Kinh nghiệm từ tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Vĩnh Long”. Các đại biểu đã đóng góp nhiều ý kiến, tham luận sâu sắc, giàu giá trị lý luận thực tiễn. Các ý kiến tại hội nghị thống nhất rằng, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác phát triển cán bộ nữ tại Vĩnh Long và Tuyên Quang còn gặp một số khó khăn. Một số cấp ủy cơ sở chưa triển khai quyết liệt, thiếu kế hoạch dài hạn, cơ chế linh hoạt trong công tác tạo nguồn, quy hoạch cán bộ nữ. Bên cạnh các điểm nghẽn từ thể chế, định kiến giới tuy đã có chiều hướng giảm nhưng vẫn là một rào cản lớn. Bà Hồ Thị Hoàng Yến, Phó Bí thư thường trược tỉnh ủy Vĩnh Long nêu thực tế:
(Việc bố trí và sử dụng cán bộ nữ thì ngoài những yếu tố của người cán bộ nữ đó cần phấn đấu, thì sự quan tâm của cấp ủy, đặc biệt là đồng chí Bí thư rất là quan trọng. Khi thực hiện quy hoạch, tiêu chuẩn, điều kiện là ngang nhau nhưng cán bộ nữ có một sự phấn đấu vượt lên chính mình. Bởi vì phụ nữ mất 5 năm vừa là thời gian mang thai và 3 năm để nuôi con nhỏ. Cho nên là người đứng đầu mà không quan tâm đến cán bộ nữ thì rất khó cho việc nảy nữ làm lãnh đạo, quản lý).
Một số ý kiến, tham luận gửi đến hội nghị đã phân tích, làm rõ các yếu tố vùng địa phương, tộc người làm ảnh hưởng, tạo rào cản phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý tại chính quyền địa phương trong bối cảnh hiện nay.
Qua đánh giá kết quả nghiên cứu, các đại biểu đã cung cấp nhiều gợi ý, giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ, chất lượng và vai trò của cán bộ nữ trong hệ thống hiến trị bảo đảm tính kế thừa và hiệu quả nhất tại hai tỉnh Vĩnh Long và Tuyên Quang nói riêng, các địa phương trong cả nước nói chung.
Những ý kiến tại hội nghị là cơ sở quan trọng, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao năng lực lãnh đạo cho phụ nữ, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, công bằng và bao trùm của Việt Nam.
Hà Nam-VOV1
Bình luận