Dấu ấn công trình trọng điểm – tự hào một Việt Nam đang thay đổi từng ngày
Thời điểm đất nước thống nhất năm 1975 chỉ có 2,5% hộ dân có điện. Nay lưới điện quốc gia đã phủ đến toàn bộ số xã, với 99,74% số hộ dân cả nước có điện. Lưới điện quốc gia đã kết nối tới nhiều đảo xa, góp phần nâng cao dân trí, phát triển kinh tế - đời sống xã hội, giữ vững an ninh năng lượng và an ninh Quốc gia. Thành quả có được này là nhờ quyết sách mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển hạ tầng “điện đi trước một bước”.

“Hệ thống điện ngày hôm nay đang điều hành đã tăng lên 21 lần cả về công suất và sản lượng. Vào thời điểm A0 ra đời chỉ có 4.000 MW, sản lượng xấp xỉ 14 tỷ kWh, còn bây giờ chúng ta đứng số 1 Đông Nam Á và thứ 22 trên thế giới. Và cơ cấu nó rất khác so ngày xưa, hiện nay là có kết nối lưới điện với nước ngoài, rất nhiều mối liên kết với nước ngoài, rất nhiều loại hình nhà máy điện, BOT có, IPP có, hạch toán tập trung thuộc doanh nghiệp nhà nước và rất nhiều năng lượng tái tạo…". Đó là khẳng định của ông Đặng Hoàng An - Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm ra đời Trung tâm điều độ hệ thống điện Quốc gia (A0), nay là Công ty TNHH MTV vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia vào cuối năm 2024 vừa qua.
Ngược dòng lịch sử, sau khi đất nước thống nhất năm 1975, tổng công suất nguồn điện cả nước ghi nhận chỉ có khoảng 1.326MW. Hệ thống lưới điện cao áp công suất 35kV đầu tiên của Việt Nam được triển khai cùng với việc xây dựng và vận hành các Nhà máy nhiệt điện Việt Trì, Thái Nguyên giai đoạn 1958-1960; đến năm 1963 mới có đường dây 110kV đầu tiên, đến nay, hệ thống nguồn điện đã có trên 86 nghìn MW công suất đặt, gấp khoảng 65 lần so với 50 năm trước. Cả nước đã có 3 tuyến đường dây 500kV Bắc - Nam hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại.

Từ những công trình thuỷ điện lớn đầu tiên ở miền Bắc do Liên Xô (cũ) giúp đỡ giai đoạn những năm 1960-1980 như Thuỷ điện Thác Bà công suất 108MW (khởi công năm 1964), Thuỷ điện Hoà Bình tổng công suất lắp đặt 1.920MW (khởi công năm 1979), người lao động Việt Nam đã dần làm chủ công nghệ, xây dựng các nhà máy thuỷ điện lớn như Sơn La (công suất 2.400MW), Lai Châu (công suất 1.200MW); đã và đang thiết kế mở rộng nhiều dự án thuỷ điện hiện hữu.
Ngày nay, không chỉ Tập đoàn Điện lực Việt Nam mà các trụ cột năng lượng lớn như Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và rất nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia xây dựng các công trình nguồn điện, lưới điện, góp phần đưa Việt Nam vào “top 10” quốc gia có đầu tư vào năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới vào năm 2021.
Từ những dự án tưởng như không thể hoàn thành vì nhiều lý do, nhờ sự nỗ lực dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đã hồi sinh, khẳnh định bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam. Ông Lê Ngọc Sơn - Tổng Giám đốc Petrovietnam, nêu thực tế: "Chúng ta đã biến những dự án tưởng như đã ngủ quên thành những động lực tăng trưởng mới. Nhà máy điện sông Hậu 1 không chỉ “hồi sinh” mà còn đạt danh hiệu “Nhà máy điện mới tốt nhất 2024”; NM nhiệt điện Thái Bình 2 đã cán mốc 10 tỷ kWh chỉ sau 20 tháng hoạt động. Chúng ta đã đáp ứng trên 10% tổng lượng điện quốc gia. Tập đoàn cũng tích cực hội nhập quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi NLTT toàn cầu và đặc biệt là công nghiệp năng lượng ngoài khơi, khẳng định vị thế tiên phong".

Dẫn chứng về sự lớn mạnh cả về quy mô công suất, cơ cấu nguồn điện đa dạng, truyền tải hiện đại và những tiện ích, chất lượng cho cả người sử dụng điện, ông Nguyễn Đức Cường - Chủ tịch HĐTV Công ty vận hành hệ thống điện và thị trường điện quốc gia khẳng định, đã có sự “thay đổi vượt bậc” từ khi hệ thống điện Quốc gia được “thống nhất 3 miền” thông qua đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam mạch 1 được hoàn thành đóng điện vào ngày 27/5/1994 (sau 2 năm khởi công): "Thời điểm ấy nguồn chúng ta mới chỉ có nhiệt điện than và thủy điện, có xíu Tuabin khí. Đến nay thì bức tranh - nguyên về phần nguồn cũng đã thay đổi rất là nhiều. Chúng ta có đủ các hình thái là nhiệt điện than - với những công nghệ cao, về quy mô cũng thay đổi ngày xưa - ngày xưa lò bé tí, bây giờ là cả nghìn MW. Thủy điện, tuabin khí dùng khí tự nhiên, tuabin khí dùng khí LNG, rồi thì điện gió, điện mặt trời; và chúng ta đang tiếp tục triển khai dự án tạm giãn tiến độ là điện hạt nhân"…
Nếu như đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 được triển khai đầu tư xây dựng bằng tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm; đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 2 là tinh thần phát huy nội lực, khả năng tự cường dân tộc, thì dự án đường dây 500kV mạch 3 được triển khai trên tinh thần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Cả nước đã chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, đổi mới cách làm để đưa dự án về đích đúng tiến độ, chỉ trong thời gian hơn 6 tháng thay vì phải mất 2-3 năm như thông lệ.
Ông Nguyễn Thái Sơn - PCT Thường trực Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (nguyên CVP Ban chỉ đạo Quốc gia về phát triển điện lực) chia sẻ: "Qua công trình này thì tôi thấy rất tự hào và xúc động khi được chứng kiến một khí thế của tuổi trẻ, của sức trẻ. Tôi cũng có thể khẳng định rằng đến bây giờ, chưa có một công trình nào mà lực lượng nhà thầu xây dựng, lực lượng của chủ đầu tư, lực lượng của các đơn vị xã hội, rồi thanh niên lại cùng hòa đồng, chung nhau xây dựng với một khí thế như là những năm 80-90 như thế"...

Đánh giá “kỳ tích” ấy là kết quả của lòng quả cảm, ý chí, quyết tâm “biến không thể thành có thể”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: "Chúng ta dám làm những công trình tưởng như không thể làm được, “làm sao mà làm được”, nhưng mà lại làm được. Chứng tỏ vai trò, vị thế và uy tín của ngành điện lực của chúng ta được nâng lên, và được nâng cao lòng nhân dân, doanh nghiệp trong nước và ngoài nước"…
Theo chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn Minh Phong đây thực sự là một công trình “truyền cảm hứng” và để lại nhiều kinh nghiệm quý: "Nó là một cột mốc trong biên niên sử của ngành điện nói riêng, của phát triển hạ tầng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Đồng thời nó cũng là minh chứng cho thấy chúng ta đã có sự phát triển rất tốt về nhận thức, về cơ sở kỹ thuật, về công tác tổ chức trong quá trình xây dựng, phát triển hạ tầng. Và với tinh thần đó, với những kết quả đó, với những kinh nghiệm đó, nếu được lan tỏa và tiếp tục phát triển thì chắc chắn nó sẽ tạo động lực rất tốt đẹp để tạo đột phá mạnh hơn nữa cho hạ tầng, để sớm tạo nền tảng cho Việt Nam có một sự phát triển tích cực trong thời gian tới".
Tiếp nối thành công của đường dây 500kV mạch 3, Dự án đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên đang trên đường về đích vào đúng dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh 02/9. Tuyến cáp ngầm 110kV vượt biển dài gần 80km từ khu vực ven biển Sóc Trăng ra tới đặc khu Côn Đảo - một thử thách mới với những kỹ sư, công nhân ngành điện đang trên đường về đích đúng thời hạn.

Không chỉ đẩy mạnh phát triển hạ tầng điện phục vụ nhu cầu kinh tế, dân sinh, Việt Nam đang tích cực chuyển đổi từ các nguồn năng lượng truyền thống sang các nguồn năng lượng tái tạo và sạch hơn. Chuyển dịch này không chỉ nhằm mục tiêu giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường mà còn đảm bảo an ninh năng lượng và tạo ra các cơ hội kinh tế mới, phát triển bền vững.
Ngày 15/4/2025 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.Theo ông Phạm Nguyên Hùng - Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương), đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước vào khoảng 236.000MW. Cùng với tăng trưởng mạnh các nguồn điện sạch như điện từ năng lượng tái tạo, điện khí LNG, nguồn điện hạt nhân với khoảng 6.400MW sẽ được đưa vào vận hành giai đoạn 2030 - 2035: "Vừa rồi đã có Nghị quyết 189 của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách đặc biệt để đầu tư xây dựng Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Hiện nay Cục đang tham mưu Bộ trình Chính phủ ban hành Nghị quyết để triển khai Nghị quyết 189, và thực hiện việc phát triển NLTT, năng lượng mới kết hợp với pin tích trữ và lưới điện thông minh, chuyển dịch năng lượng công bằng và phát triển bền vững"…

Nhiều năm qua điện được cung cấp đủ cho phát triển kinh tế xã hội và đời sống của nhân dân. Chất lượng cung cấp điện ngày càng được đảm bảo, hệ thống điện ngày càng hiện đại, tự động hóa cao nhờ ứng dụng KHCN và lưới điện thông minh. Việc vận hành thị trường điện ngày càng cạnh tranh, minh bạch. Công tác chuẩn bị đủ điện cho tăng trưởng kinh tế “hai con số” cũng đã được tính đến. Từ hình hài, dấu ấn những công trình điện đã và đang tiếp tục khẳng định tầm nhìn, bản lĩnh Việt Nam vững vàng bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc!
PV Nguyên Long
Bình luận