Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, từ năm 2015 đến hết năm 2025, toàn quốc đã giải quyết hơn 6 triệu hồ sơ đăng ký kết hôn, trong đó 87,9% là đăng ký kết hôn lần đầu. Hầu hết các địa phương đều ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hộ tịch, từng bước hình thành cơ sở dữ liệu điện tử thống nhất toàn quốc. Trong giai đoạn này, tỷ lệ giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình trung bình đạt trên 97%. Các vụ án ly hôn chiếm khoảng 80% tổng số vụ việc và tăng trung bình 4-5% mỗi năm. Tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống giảm rõ rệt.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nêu những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật. Theo các đại biểu, căn cứ ly hôn thiếu tiêu chí định lượng dẫn đến sự không thống nhất trong xét xử. Luật chưa công nhận ly thân là chế định pháp lý độc lập, gây khó khăn khi xác định quyền tài sản, trách nhiệm cấp dưỡng, hoặc tư cách chủ thể trong giao dịch dân sự. Bà Phạm Thị Khánh Toàn, thẩm tra viên chính Vụ giám đốc kiểm tra III, Tòa án nhân dân tối cao cho biết: việc chứng minh tài sản chung và riêng, lượng hóa công sức đóng góp của vợ chồng khi ly hôn trong nhiều trường hợp gặp vướng mắc. Hiện ở Việt Nam, trước hôn nhân thường không có thỏa thuận hay văn bản chứng minh về tài sản riêng. Trong quá trình giải quyết các vụ án, tòa án cũng thu thập, đánh giá chứng cứ để xác định rõ ràng đâu là tài sản riêng và đâu là tài sản chung. Tuy nhiên, hiện Luật quy định còn chung chung nên trong thực tiễn xét xử cũng gặp khó khăn liên quan đến nội dung này.
Chia sẻ thực tiễn này, ông Đào Duy An, Tổng Thư ký Hiệp hội công chứng viên Việt Nam cho rằng hiện chưa có cơ chế hiệu quả để minh bạch thông tin về chế độ tài sản vợ chồng và tình trạng hôn nhân gây khó khăn cho việc xác định tài sản chung, riêng. Tài sản trong sở hữu chung của hộ gia đình, trong doang nghiệp hoặc hình thành từ các nguồn riêng nhưng khó có căn cứ chứng minh. Ngoài ra, với việc mặc định tài sản là chung khi không có căn cứ là riêng dẫn đến hạn chế quyền của cá nhân với tài sản riêng. Công chứng viên thường phải áp dụng cách tiếp cận thận trọng, coi tài sản là tài sản chung và yêu cầu sự tham gia của cả hai vợ chồng, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc công nhận này không phản ánh đúng sự thật khách quan, thậm chí gây ách tắc giao dịch. Ông Đào Duy An đề nghị cần cụ thể hóa hơn các tiêu chí xác định tài sản riêng của vợ chồng, đặc biệt trong các trường hợp tài sản có nguồn gốc hỗn hợp hoặc được hình thành qua nhiều giai đoạn khác nhau (trước và trong thời kỳ hôn nhân). Đối với chế độ tài sản theo thỏa thuận, cần làm rõ phạm vi, hình thức và hiệu lực pháp lý của các thỏa thuận tài sản, tránh tình trạng trên thực tế xuất hiện nhiều loại văn bản “thỏa thuận tài sản riêng” không có cơ sở pháp lý rõ ràng. Pháp luật cần quy định minh bạch hơn về giá trị pháp lý của các thỏa thuận này đối với bên thứ ba, nhằm hạn chế tranh chấp và bảo đảm an toàn giao dịch.
Thêm nữa, hiện nay, các loại tài sản mới như tài sản số, tài sản hình thành trong tương lai, quyền tài sản gắn với công nghệ... chưa được điều chỉnh đầy đủ khiến quá trình phân chia, xử lý tài sản trong quá trình xét xử hay thi hành án còn gặp khó khăn. Bên cạnh đó, theo bà Lã Thị Tú Anh, Phó vụ trưởng Vụ kiểm sát án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, một số vấn đề mới phát sinh đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong thời gian tới. Thực tế hiện nay có sự gia tăng của các hình thức quan hệ hôn nhân gia đình phi truyền thống như hôn nhân cùng giới, cha mẹ đơn thân, gia đình tái cấu trúc phát sinh rất nhiều vấn đề pháp luật cần điều chỉnh để bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của vợ chồng, cha dượng, mẹ kế, con riêng. Trong trường hợp này pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể. Ngoài ra, với sự phát triển của khoa học công nghệ tuy góp phần rất lớn và hiệu quả việc hỗ trợ sinh sản nhưng cũng đặt ra cơ chế rõ ràng, cụ thể chặt chẽ đối với trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hay mục đích thương mại và các phương pháp hỗ trợ sinh sản khác để hạn chế thấp nhất những tranh chấp có thể xảy ra.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú khẳng định: việc nhận diện những khó khăn, vướng mắc, những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn có ý nghĩa lớn trong việc hoàn thiện luật trong thời gian tới, đặc biệt bám sát và thể hiện được tinh thần được nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 13 là phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”, “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới./.
Bình luận