Những ngày cuối tháng 8 này, trên khắp đất nước Việt Nam đang chứng kiến không khí rộn ràng chuẩn bị  kỷ niệm 80 năm ngày Tết Độc lập 2/9. Hòa chung không khí ấy, có rất nhiều bạn bè quốc tế yêu quý Việt Nam, trong đó có những người bạn Hoa Kỳ.

Cách đây 80 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời quốc dân đồng bào và đông đảo bạn bè quốc tế, trong đó có những người bạn Hoa Kỳ- đến quảng trường Ba Đình lịch sử, chứng kiến bản Tuyên ngôn lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. 80 năm trước, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Người cũng đã mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9 bằng câu "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong đó, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", trích từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ. Điều này cho thấy, ngay từ thời điểm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong muốn  làm bạn với nhân dân Hoa Kỳ.

Và trong lễ kỷ niệm 30 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ ngày 11/7 vừa qua, Đại sứ Hoa Kỳ Marc Knapper cũng đã nhắc lại Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, nhấn mạnh sự kết nối về tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa hai đất nước.

Nhìn lại 30 năm bình thường hóa quan hệ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những bước tiến dài, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước, và như trong phát biểu của cựu Tổng thống Joe Biden tại Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24/9/2023, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã trở thành “hình mẫu kiến tạo hòa bình trong quan hệ quốc tế”.

Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh mùng 2/9, 30 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ, Ban Thời sự - Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức cuộc Tọa đàm “30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ: Kiến tạo hòa bình vì tương lai hợp tác, phát triển và thịnh vượng”.

 Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam ông Marc Knapper và Đại sứ Hà Kim Ngọc, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ tham gia cuộc tọa đàm.

Lòng tin chiến lược- giúp quan hệ Việt-Mỹ đơm trái ngọt.

PV: Thời điểm này, Việt Nam đang chuẩn bị kỷ niệm 80 năm thành lập nước. Và như chúng tôi đã nhấn mạnh: Ngay từ những ngày đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhấn mạnh khát khao hòa bình, và làm bạn với nhân dân Mỹ. Sau 30 năm, hai nước chúng ta- từ cựu thù, đã gác lại quá khứ, trở thành bạn bè và đối tác chiến lược toàn diện.

Thưa Đại sứ Knapper và Đại sứ Hà Kim Ngọc, các ông nghĩ gì về khoảnh khắc hòa bình mà chúng ta có được trong bối cảnh địa chính trị quốc tế biến động phức tạp hiện nay?

Đại sứ Marc Knapper: Xin cảm ơn, và xin gửi lời chào đến quý vị thính giả của VOV. Tôi thực sự trân trọng cơ hội tham gia cùng người bạn thân thiết của tôi, Đại sứ Hà Kim Ngọc. Khát vọng hòa bình là điều mà người dân Hoa Kỳ và nhân dân Việt Nam cùng chia sẻ. Chúng tôi cũng rất trân trọng những đóng góp của Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua nhằm thúc đẩy hòa bình trong khu vực và trên toàn thế giới, bao gồm các hoạt động như tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình tại châu Phi và những nơi khác.

Quan hệ song phương Hoa Kỳ - Việt Nam trong 30 năm qua thực sự là một mối quan hệ đặc biệt, chúng ta sẽ tiếp tục vun đắp mối quan hệ, như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Đây là điều mà chúng ta đều coi trọng. Đó là giá trị chung của nhân dân hai nước chúng ta, và chúng ta sẽ tiếp tục cùng nhau theo đuổi những giá trị này.

Đại sứ Hà Kim Ngọc: “Hòa bình là khát vọng chung của nhân loại trong đó có nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ. Đối với nhân dân Việt Nam, hòa bình còn là di sản thiên nhiên được xây đắp bởi nhiều thế hệ. Và hòa bình là điều kiện tiên quyết để Việt Nam phát triển trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

PV: Trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 30 năm ngày thiết lập quan ngoại giao hai nước hôm 11/7, ông cũng đã nhắc đến Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chắc hẳn Đại sứ Knapper đã gửi gắm rất nhiều thông điệp ý nghĩa trong sự kiện ngày 11/7…. Ông có thể chia sẻ cùng quý thính giả của VOV?

Đại sứ Marc Knapper: Thông điệp mà tôi muốn truyền tải là quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã diễn ra 30 năm qua, nhưng mối quan hệ của chúng ta bắt nguồn từ xa hơn nữa - từ 80 năm trước, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nền độc lập của Việt Nam, trong đó ông trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ. Điều đó cho thấy mối gắn kết sâu xa đã tồn tại giữa hai quốc gia chúng ta, từ thời Hồ Chí Minh đặt chân đến Hoa Kỳ, tới New York và Boston.

Vì vậy, tôi mong muốn mọi người hiểu và ghi nhận rằng, dù quan hệ ngoại giao chính thức của chúng ta kéo dài 30 năm, thực tế chúng ta đã có không chỉ 30 năm, mà là 80 năm gắn kết, trong đó Hoa Kỳ và Việt Nam đã hợp tác, bao gồm mối hợp tác tại miền bắc Việt Nam vào năm 1945. Đây thực sự là một mối quan hệ đặc biệt, phản ánh những giá trị chung của nhân dân hai nước chúng ta, đó là khát vọng sống, khát vọng tự do, mưu cầu hạnh phúc, và hòa bình. Không chỉ hòa bình giữa nhân dân hai nước, mà còn là hòa bình trên toàn thế giới.

PV: 30 năm trước, Việt Nam-Hoa Kỳ đã gác lại quá khứ, trở thành những người bạn tốt; những đối tác quan trọng của nhau: Đối tác chiến lược toàn diện. Và như chúng ta đã chúng kiến những bước phát triển quan trọng trong quan hệ hai nước:  từ tháng 11/2024-7/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng thống Donald Trump đã 4 lần trao đổi điện đàm cấp cao. Thưa Đại sứ Hà Kim Ngọc và Đại sứ Knapper, theo các ông, những cuộc điện đàm này nói lên điều gì? Đâu là những thành công quan trọng nhất mà hai nước chúng ta đã có được?

Đại sứ Hà Kim Ngọc: Vâng, 4 cuộc điện đàm giữa lãnh đạo cấp cao 2 nước đã thể hiện sự quan tâm, sự cam kết của lãnh đạo cấp cao hai nươc đối với quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ nói chung và cùng nhau nỗ lực giải quyết những vấn đề còn tồn tại, đưa quan hệ hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ sang một giai đoạn mới đồng thời nó cũng thể hiện sự tin cậy giữa hai nước. Tôi nghĩ kết quả quan trọng nhất chúng ta đã nâng được quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ lên tầm mức cao nhất từ trước đến nay theo cả chiều rộng và chiều sâu. Giờ đây hai nước có thể hợp tác trên tất cả các lĩnh vực trong đó lĩnh vực kinh tế -thương mai đầu tư nó là trọng tâm, động lực của quan hệ và hợp tác về công nghệ cao được xem như đột phá của giai đoạn mới trong khi tiếp tục hợp tác về khắc phục hậu quả chiến tranh góp phần vào việc hàn gắn và xây dựng lòng tin. Giờ đây, chúng ta không chỉ hợp tác những vấn đề song phương mà hai nước còn hợp tác những vấn đề khu vực và toàn cầu; đóng góp rất thiết thực vào việc duy trì hòa bình ổn định hợp tác phát triển trên thế giới; và chúng ta còn có những nguyên tắc căn ban trong quan hệ: đó là tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thể chế chính trị của nhau; tôn trọng luật pháp quốc tế và giải quyết hòa bình những vấn đề bất đồng và tranh chấp... thì tôi cho rằng, đó là những kết quả quan trọng nhất.

Đại sứ Marc Knapper:  Như Đại sứ Ngọc đã nói, bốn cuộc điện đàm giữa lãnh đạo hai nước thực sự phản ánh tầm quan trọng mà lãnh đạo chúng ta dành cho mối quan hệ này. Trong nhiệm kỳ trước, Tổng thống Donald Trump đã hai lần thăm Việt Nam, vào năm 2017 và năm 2019, và tôi rất mong chờ ông lại đến thăm Việt Nam. Tuy nhiên, hiện tại, tôi chưa có thông tin chính thức nào để công bố, nhưng chúng tôi hy vọng điều đó sẽ diễn ra trong nhiệm kỳ này.

Nhìn lại chặng đường 30 năm qua, đây quả thật là một hành trình đầy ấn tượng. Năm 1995, chúng ta gần như chưa có gì về hợp tác thương mại, đầu tư hay hợp tác trong các lĩnh vực khác. Nhưng ngày nay, thương mại hai chiều của hai nước chúng ta đã đạt mức 150 tỷ USD. Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam, và Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ tám của Hoa Kỳ. Quan hệ của chúng ta đã mở rộng trên hầu hết mọi lĩnh vực: y tế, giáo dục, giao lưu nhân dân, năng lượng, quốc phòng, an ninh. Có thể nói, bất cứ lĩnh vực nào mà sự hợp tác mang lại giá trị cho hai quốc gia chúng ta, Hoa Kỳ và Việt Nam đều hợp tác cùng nhau.

Như Đại sứ Hà Kim Ngọc đã nói, nền tảng cho mối quan hệ hợp tác này chính là nỗ lực chung của chúng ta nhằm giải quyết những vấn đề chiến tranh để lại, bao gồm tìm kiếm người Mỹ mất tích, nay bao gồm việc tìm kiếm người Việt Nam mất tích; xử lý dioxin, rà phá bom mìn, và hỗ trợ người khuyết tật. Tất cả những nỗ lực này đã trở thành nền tảng của mối quan hệ, giúp xây dựng lòng tin, thúc đẩy hòa giải và mang lại quan hệ tốt đẹp mà chúng ta có được ngày hôm nay.

Tôi cũng muốn nói rằng, những gì Việt Nam đã làm trong vấn đề MIA (người Mỹ mất tích trong chiến tranh) thực sự mang nhiều ý nghĩa và là điều mà chính phủ Hoa Kỳ cũng như nhân dân Hoa Kỳ vô cùng cảm kích. Chính phủ Việt Nam, chính quyền địa phương và người dân Việt Nam tại các địa phương đã tham gia nỗ lực này với tinh thần nhân văn đặc biệt. Đó là điều rất đáng trân trọng, rất đặc biệt, và chúng tôi vô cùng biết ơn về những gì Việt Nam đã làm để hỗ trợ cho công việc tìm kiếm người Mỹ mất tích.

PV: Thưa Đại sứ Marc Knapper trong thông điệp gửi tới Việt Nam sáng ngày 11/7/2025, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Rubio đã nhấn mạnh rằng:  Sau 30 năm, Hoa Kỳ và Việt Nam bước sang một chặng đường mới, đó là “kiến tạo hòa bình, hợp tác và thịnh vượng giữa hai dân tộc”. Trong đó, lòng tin và chia sẻ lợi ích chính là yếu tố quan trọng đối với cả hai nước.

Thưa Đại sứ Knapper, tôi còn nhớ, trong một cuộc làm việc, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng “ông rất vui vì được đón tiếp Đại sứ Knapper, một người bạn Hoa Kỳ có nhiều duyên nợ đến Việt Nam”. Nói nhiều duyên nợ vì cha của ngài Đại sứ là một cựu binh Mỹ tham chiến tại Việt Nam còn ông- nay lại là Đại diện cao nhất của Hoa Kỳ tại Việt Nam….Câu chuyện ấy đã nói lên rất nhiều điều trong quan hệ hai nước chúng ta.

Và chúng tôi nghĩ rằng, rất nhiều dự án chúng ta đang hợp tác, trong đó có dự án tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích (MIA) hay dự án rà phá bom mìn...chính là  minh chứng cho sự tin cậy, hòa giải và tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Đại sứ Knapper nghĩ sao về điều này?

Đại sứ Marc Knapper: Tôi thực sự trân trọng những lời tốt đẹp mà cố Tổng Bí thư dành cho tôi. Ông là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Chúng tôi rất biết ơn và quý trọng những đóng góp của ông cho quan hệ hai nước, bao gồm chuyến thăm Hoa Kỳ của ông, cũng như việc ông đón tiếp Tổng thống Trump tại đây, và Tổng thống Biden cách đây vài năm.

Cha tôi từng tham chiến tại Việt Nam và ông trở lại cách đây 20 năm, vào nhiệm kỳ lần trước của tôi tại Việt Nam. Đó là một dịp đặc biệt đối với tất cả chúng tôi, đặc biệt là với cha tôi, khi ông có thể trở lại Việt Nam để chứng kiến đất nước các bạn hòa bình và phát triển thịnh vượng. Tôi nghĩ rằng như nhiều cựu binh khác, ông đã rất bất ngờ trước sự đón tiếp nồng hậu mà ông nhận được. Ông luôn tin tưởng mạnh mẽ vào việc thúc đẩy hòa giải và xây dựng tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Thật đáng chú ý là chỉ trong một thế hệ, chúng ta đi từ việc cha tôi tham chiến tại đây, đến việc tôi có mặt tại Việt Nam với tư cách Đại sứ. Tôi không bao giờ quên rằng đây là một di sản quan trọng mà chúng ta phải tiếp tục, bởi vì mối quan hệ này không tự nhiên mà có. Nó có được nhờ bản lĩnh của những con người ở cả hai quốc gia trong suốt nhiều năm, như John Kerry, John McCain, cũng như nhiều người Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, những người đã tiên phong, cho thấy tầm quan trọng của mối quan hệ này, dù có những hoài nghi vào thời điểm đó. Vì vậy, chúng tôi rất trân trọng bản lĩnh của các nhà lãnh đạo của cả hai nước, nhờ đó đã đưa chúng ta đến ngày hôm nay.

Như Đại sứ Hà Kim Ngọc đã nói, nguyên tắc trong cách tiếp cận quan hệ của chúng ta là tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau. Nguyên tắc nền tảng cho chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam là chúng tôi mong muốn một Việt Nam vững mạnh, độc lập, thịnh vượng và kiên cường. Đây là những nguyên tắc định hướng cho tất cả những gì chúng tôi làm, đồng thời chúng tôi luôn ghi nhận rằng các nỗ lực giải quyết những vấn đề chiến tranh để lại - việc tìm kiếm người Mỹ mất tích (MIA), xử lý vật liệu nổ - chính là nền tảng quan trọng để tiếp tục xây dựng lòng tin và hòa giải giữa nhân dân, quân đội và chính phủ hai nước.

PV: Thưa Đại sứ Hà Kim Ngọc, là một nhà ngoại giao- chứng kiến nhiều dấu ấn trong quan hệ Việt-Mỹ, theo ông những dự án MIA nói riêng và các dự án hợp tác chung khác giữa hai nước, đã đóng góp xây dựng lòng tin chiến lược giữa Mỹ và Việt Nam như thế nào?

Đại sứ Hà Kim Ngọc: “Giai đoạn đầu của quan hệ song phương có thể nói có rất nhiều khó khăn do Hội chứng Việt Nam tại Mỹ và Hội chứng Mỹ tại Việt Nam- tức là còn sự e dè, nghi kỵ lẫn nhau thì lĩnh vực MIA là sự khởi đầu của hợp tác. Việt Nam coi MIA là vấn đề thuần túy nhân đạo; không gắn với bất cú điều kiện chính trị nào và sẵn sàng tạo mọi thuận lợi để tìm kiếm người Mỹ mất tích ở Việt Nam và có những cán bộ Việt Nam hy sinh giữa thời bình khi tìm kiếm những người Mỹ mất tích...Thế thì những nỗ lực chân thành cùng những kết quả thiết thực trong lĩnh vực này đã chuyển hóa chính giới Mỹ, dư luận Mỹ và các gia đình MIA Mỹ và nữ Đại sứ Marc Knapper vừa nói, Đại sứ Mỹ rất trân trọng và đánh giá cao những nghĩa cử cao đẹp của Việt Nam trong việc tìm kiếm người Mỹ mất tích trong khi Việt Nam còn đi tìm kiếm hàng vạn người đang mất trích trong chiến tranh.

Ở chiều ngược lại những sự hợp tác rất tích cực, hiệu quả của các bạn Hoa Kỳ trong nhiều năm trong đó có sự đóng góp của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại đây và cá nhân Đại sứ Marc Knapper liên quan đến vấn đề tẩy độc da cam dioxin, hay rà phá bom mìn như Đại sứ vừa nói cho đến giúp đỡ những nạn nhân của chiến tranh và gần đây là định danh, tập kết hài cốt bộ đội Việt Nam hy sinh trong chiến đấu....những việc làm đó có ý nghĩa rất quan trọng vào quá trình hòa giải hàn gắn xây dựng lòng tin. Đồng thời kết quả hợp tác thiết thực trên nhiều lĩnh vực khác từ kinh tế thương mại đầu tư; KHCN, giái dục đào tạo rồi chính trị, ngoại giao...Đại sũ cũng đã đề cập đến một số chuyến thăm cấp cao, rồi quốc phòng, an ninh...cũng như những nỗ lực của hai nước đóng góp vào quá trình duy trì hòa bình ổn định hợp tác ở khu vực rồi tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng tự do hàng hàng hải và hàng không.....Đó là những yếu tố rất quan trọng đóng góp vào lòng tin chiến lược giữa hai nước”.      

PV: Thưa Đại sứ Hà Kim Ngọc, đã từng là Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ & đóng góp nhiều công sức vun đắp cho tiến trình hợp tác & xây dựng đối tác chiến lược và đối tác toàn diện Việt Nam và Hoa Kỳ, chắc hẳn ông có rất nhiều câu chuyện thú vị có thể kể cho các thính giả của chúng ta, thưa Đại sứ Hà Kim Ngọc?

Đại sứ Hà Kim Ngọc: “Tôi không ba giờ quên những ngày tháng khó khăn khi đại dịch COVID19 bùng phát tại Mỹ. Khi đó tôi là Đại sứ Việt nam tại Hoa Kỳ, thì chính vào thời điểm ngặt nghèo nhất, câu chuyện hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ lại tỏa sáng cùng nhau chống lại đại dịch và nó là biểu tượng của tinh thần đối tác-hợp tác mới đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua khó khăn thử thách.

Chúng tôi đã chứng kiến đại dịch hoành hành ở Hoa Kỳ và lúc đó, nước Mỹ rất khó khăn vì thiếu các trang thiết bị y tế, đồ bảo hộ cá nhân thì khi tôi nhận được một cuộc điện thoại từ Nhà Trắng yêu cầu Việt Nam giúp đỡ hỗ trợ các trang thiết bị y tế và đồ bảo hộ, trong đầu tôi ko hình dung được là Việt Nam có cái gì. Nhưng tôi nói ngay với các bạn Hoa Kỳ rằng “Bất cứ điều gì chúng tôi có thể làm được, bất cứ cái gì chúng tôi có thể cung cấp được chúng tôi sẵn sàng. Ngay sau đó chúng tôi có gọi điện về trong nước báo cáo với Lãnh đạo cấp cao Việt Nam. Các nhà lãnh đạo cấp cao đã yêu cầu tôi chuyển thông điệp đến Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump “Việt Nam sẵn sàng làm hết sức mình để giúp nhân dân Hoa Kỳ”. Không lâu sau đó, các lô hàng đầu tiên đã đáp xuống Texas và ngày 9/4/2000, Tổng thống Trump đã Tiwtter “Cảm ơn những người bạn Việt Nam”. Đến khi chủng virus Delta hoành hành ở Việt Nam, chúng ta rất cần những liều vaccine để dập dịch và tôi đã xúc động trào nước mắt khi tôi nhận được cuộc điện thoại từ Bộ ngoại giao Hoa Kỳ thông báo Việt Nam sẽ được nhận những liều vaccine đầu tiên được xếp vào loại ưu tiên do Hoa Kỳ cung cấp. Người dân Việt Nam đã rất trân trọng và sử dụng hiệu quả từng liều vaccine do Hoa Kỳ cung cấp. Và tính chung trong toàn đợt dịch, Hoa Kỳ đã cung cấp cho Việt Nam hơn 20 triệu liều vaccine, một số lượng vaccine rất lớn trong bối cảnh lúc đó góp phần rất quan trọng vào việc dập dịch ở Việt Nam để chúng ta có thể khôi phục được đất nước, hồi phục để phát triển.

Thế thì câu chuyện hai nước đoàn kết hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, đó là một câu chuyện rất xúc động rất có ý nghĩa. Nó đa đóng góp những viên gạch vào nền tảng vững chắc của quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện sau này. Nhân dịp này, tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến chính phủ Hoa Kỳ, nhân dân Hoa Kỳ, đến Đại sứ Marc Knapper và các cán bộ Đại sứ quán đã rất tâm huyết giúp đỡ Việt Nam vô cùng hiệu quả và kịp thời”.       

PV: Trở lại với Đại sứ Knapper, trong năm đầu của nhiệm kỳ, ông luôn nhắc tới 3 ưu tiên gồm giáo dục, đổi mới sáng tạo và quan hệ đối tác. Thời điểm này, lĩnh vực nào khiến ông hài lòng nhất?

Đại sứ Marc Knapper: Bạn biết đấy, đây là một câu hỏi khó, vì có rất nhiều ví dụ mà tôi có thể đưa ra. Nhưng tôi nghĩ thông điệp mà tôi muốn nhấn mạnh là: cam kết của Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thúc đẩy quan hệ giáo dục, củng cố quan hệ đối tác của chúng ta là rất rõ ràng. Điều này càng có ý nghĩa nếu nhìn vào những mục tiêu, khát vọng mà Việt Nam đã đề ra cho mình trong hai đến ba thập kỷ tới - từ việc trở thành nền kinh tế xanh vào năm 2050, nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045, phát triển kinh tế số, đào tạo thêm hàng chục nghìn nhân lực công nghệ cao để xây dựng hệ sinh thái thu hút đầu tư công nghệ cao. Tất cả những nỗ lực này đều có sự tham gia của Hoa Kỳ, có sự hỗ trợ của chính phủ Hoa Kỳ thông qua các chương trình trao đổi giáo dục, như hỗ trợ nỗ lực của Đại học Bang Arizona trong việc xây dựng chương trình đào tạo công nghệ cao cho các trường đại học Việt Nam; hay qua các công ty Hoa Kỳ như Intel, AMD, Marvell, Synopsys - những công ty bán dẫn đang đầu tư tại Việt Nam, hỗ trợ đào tạo lực lượng lao động Việt Nam cho tương lai, hợp tác với các trường đại học Việt Nam để hiện thực hóa mục tiêu chung: đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất, đổi mới công nghệ cao, đa dạng hóa chuỗi cung ứng và đóng vai trò lớn hơn trong ngành bán dẫn toàn cầu cũng như các lĩnh vực sản xuất và thương mại khác.

Tôi thấy thực sự đáng khích lệ khi chứng kiến các công ty, chính phủ và các trường đại học Hoa Kỳ hợp tác với đối tác Việt Nam để giúp Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế công nghệ cao, thu nhập cao trong hai thập kỷ tới. Chúng tôi hợp tác với Cảnh sát biển Việt Nam, đào tạo thế hệ phi công mới; hay tham gia Triển lãm Quốc phòng Việt Nam vào tháng 12 năm ngoái, nơi chúng tôi mang đến máy bay Mỹ, trong đó có cả máy bay C-130, thật sự rất ấn tượng.

Chúng tôi rất tự hào về những nỗ lực đó. Một khía cạnh cốt lõi khác của việc xây dựng quan hệ đối tác là thúc đẩy đổi mới sáng tạo và củng cố hợp tác giáo dục. Chúng tôi tự hào rằng hiện có tới 30.000 sinh viên Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có số lượng du học sinh lớn thứ sáu tại Mỹ. Nhưng nếu tính cả các chương trình ngắn hạn như trại hè, chương trình ở cùng gia đình bản xứ, du học một học kỳ; hay các chương trình trực tuyến như lấy chứng chỉ từ Google Online hoặc AWS, thì số lượng người Việt Nam tiếp cận các chương trình giáo dục Mỹ mỗi năm lên đến 300.000. 300.000 người Việt Nam - chủ yếu là thanh niên, nhưng chắc chắn cũng có cả những người lớn tuổi hơn - đã và đang tiếp cận giáo dục Hoa Kỳ. Đó thực sự là một điều tuyệt vời và là cầu nối giữa hai nước chúng ta. Tôi cũng mong muốn sẽ có thêm nhiều thanh niên Mỹ đến Việt Nam, bao gồm sinh viên, học giả, nhà nghiên cứu, giảng viên, và chúng tôi sẽ tiếp tục thúc đẩy điều này.

PV: Vậy, theo Đại sứ Knapper, hai nước chúng ta cần làm gì để nhân lên lợi ích, hiểu biết và lòng tin giữa hai nước, từ những ưu tiên mà ông kỳ vọng?

Đại sứ Marc Knapper: Chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ về những lợi ích chung, những mục tiêu chung. Đó là thúc đẩy hòa bình, an ninh và thịnh vượng cả trong khu vực và trên toàn cầu. Nhưng đồng thời cũng là bảo đảm rằng nhân dân hai nước có thể hợp tác trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt lĩnh vực công nghệ cao.

Chúng tôi mong muốn các công ty Hoa Kỳ đầu tư tại đây, thành công tại đây, và những công ty đã hiện diện sẽ mở rộng đầu tư. Chúng tôi đánh giá cao vai trò của các công ty công nghệ cao Hoa Kỳ trong việc xây dựng hạ tầng công nghệ cao của Việt Nam. Chúng tôi cũng trân trọng vai trò của các công ty năng lượng Hoa Kỳ trong việc bảo đảm một tương lai năng lượng an toàn cho Việt Nam, dù đó là việc nhập khẩu khí LNG từ Hoa Kỳ, củng cố lưới điện Việt Nam, xây dựng các nhà máy điện, một ngày nào đó có thể là nhà máy điện hạt nhân, hay hợp tác cùng Việt Nam phát triển nguồn khoáng sản chiến lược và đất hiếm.

Tất cả những lĩnh vực này đều hướng tới tương lai mà Chính phủ và doanh nghiệp Hoa Kỳ mong muốn tham gia, đang tham gia, và sẽ tiếp tục tham gia, nhằm củng cố quan hệ đối tác và tình hữu nghị của chúng ta trong những lĩnh vực then chốt này. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho tương lai của Việt Nam, mà còn cho cả tương lai của Hoa Kỳ. Sự thịnh vượng của hai quốc gia chúng ta gắn bó mật thiết với nhau. Và tôi nghĩ rằng, việc chúng ta nâng cấp quan hệ cách đây hai năm không chỉ phản ánh chặng đường chúng ta đã đi, mà còn thể hiện cam kết rằng chúng ta có thể cùng nhau tiến xa hơn nữa.

Mốc son 30 năm - gieo mầm hạt giống mới cho tương lai

PV: Quý vị và các bạn đang nghe “Tọa đàm 30 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ-Kiến tạo câu chuyện hòa bình- vì tương lai hợp tác, phát triển và thịnh vượng

 Thưa Đại sứ Knapper. Cùng với các dự án thúc đẩy quan hệ đối tác, trong một phát biểu mới đây, ông đã nhấn mạnh rằng: “Việt Nam và Hoa Kỳ đang đứng trước những cơ hội hợp tác mới trong lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là trong lĩnh vực chất bán dẫn. Ông cũng nói rằng: Việt Nam có đủ năng lực và điều kiện để vươn lên trở thành điểm đến toàn cầu về sản xuất công nghệ cao.

Ông có thể lý giải vì sao ông đưa ra quan điểm này với các thính giả của chúng tôi?

Đại sứ Marc Knapper: Tôi nghĩ rằng Việt Nam đang ở thời điểm sẵn sàng để trở thành một cường quốc toàn cầu mới trong lĩnh vực thiết kế và sản xuất chất bán dẫn. Tôi cho rằng điều này phản ánh nhiều yếu tố. Trước hết, đó là lực lượng lao động Việt Nam có chất lượng cao. Nó phản ánh sự cần cù, chăm chỉ và tiêu chuẩn giáo dục cao mà người lao động Việt Nam đang có. Đây cũng là điều mà chính phủ, các công ty và các cơ sở học thuật Hoa Kỳ hỗ trợ thúc đẩy thông qua các chương trình đào tạo, nâng cao kỹ năng, đào tạo lại kỹ năng, để lực lượng lao động sẵn sàng làm việc trong các nhà máy và công ty thiết kế của thế kỷ 21.

Bạn không cần chỉ nghe lời tôi nói, hãy nhìn vào những gì mà các công ty Hoa Kỳ đang thực hiện ở đây. Một số tập đoàn bán dẫn và công nghệ cao tiên tiến nhất của Hoa Kỳ đang đầu tư mới hoặc mở rộng các khoản đầu tư hiện có, đồng thời hợp tác chặt chẽ với chính quyền địa phương và các trường đại học địa phương. Một ví dụ rất đáng chú ý là dự án tại Đà Nẵng giữa chính quyền thành phố Đà Nẵng, Đại học Phenikaa và một công ty thiết kế chip của Hoa Kỳ có tên là Synopsys. Synopsys đang cung cấp chương trình đào tạo cho Đại học Phenikaa để nhà trường đào tạo sinh viên về thiết kế và sản xuất chất bán dẫn. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho sự hiện diện của Synopsys tại Đà Nẵng, nhưng cũng cho cả nước, khi các sinh viên sau này sẽ làm việc tại các nhà máy ở khắp cả nước.

Đây là một cơ hội tốt để Việt Nam tiến lên trong chuỗi giá trị toàn cầu về chất bán dẫn, qua đó một lần nữa khẳng định chất lượng lao động, quy mô dân số lớn, hệ thống giáo dục tốt, cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên mà Việt Nam sở hữu và sẽ tiếp tục khai thác, chế biến - đặc biệt là các khoáng sản chiến lược thiết yếu cho sản xuất công nghệ cao. Vì vậy, tôi tin rằng Việt Nam đang có cơ hội trở thành cường quốc tiếp về chất bán dẫn và công nghệ cao.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống Mỹ Joe Biden dự Hội nghị cấp cao Việt Nam - Mỹ về Đầu tư và đổi mới sáng tạo, sáng 11/9/2023

PV:  Hiện, Hoa Kỳ có các dự án đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ cao như thế nào, thưa Đại sứ?

Đại sứ Marc Knapper: Tôi nghĩ rằng hình thức hợp tác công – tư mà chúng ta đang thúc đẩy có vai trò then chốt đối với hợp tác trong lĩnh vực công nghệ cao và nhiều lĩnh vực khác. Ví dụ, nguồn tài trợ của chính phủ Hoa Kỳ dành cho Đại học Bang Arizona đã giúp phát triển chương trình đào tạo công nghệ cao, hiện đang được chia sẻ với các trường đại học tại Việt Nam. Hay như mô hình hợp tác công – tư mà tôi vừa nêu giữa Đại học Phenikaa, thành phố Đà Nẵng và công ty Synopsys.

Chúng ta cũng đang có những cơ hội hợp tác dành cho một số doanh nghiệp lớn nhất của Việt Nam hợp tác với các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong sản xuất chất bán dẫn và nhiều ngành chế tạo khác. Những thách thức của thế kỷ 21 đòi hỏi phải có những cách tiếp cận sáng tạo để giải quyết, và tôi nghĩ rằng không ai có thể làm một mình. Trong trường hợp này, đó là sự phối hợp giữa chính phủ Hoa Kỳ, các trường đại học Hoa Kỳ, các công ty Hoa Kỳ với các đối tác Việt Nam - chính phủ Việt Nam, chính quyền địa phương, doanh nghiệp Việt Nam, và dĩ nhiên cả lực lượng lao động Việt Nam mạnh mẽ, sáng tạo, đổi mới và đầy tinh thần khởi nghiệp.

Đây chính là điều hấp dẫn các nhà đầu tư, không chỉ các nhà đầu tư Hoa Kỳ mà nhiều nhà đầu tư quốc tế khác. Đó là điều khiến chúng tôi phấn khởi, bởi tôi tin rằng điều này sẽ cho thấy Việt Nam nhanh chóng trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu về chất bán dẫn cũng như các ngành công nghệ cao khác.

PV: Vậy, ông đánh giá thế nào về vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu?

Đại sứ Marc Knapper: Với vị trí chiến lược của Việt Nam, cùng với dân số đông và có trình độ học vấn cao, trong những năm qua chúng ta đã chứng kiến sự chuyển mình của Việt Nam từ sản xuất nhẹ - như may mặc, giày dép - sang các sản phẩm có giá trị cao hơn, từ thiết bị điện tử tiêu dùng, ô tô, cho đến các mặt hàng công nghệ cao như chất bán dẫn.

Xu hướng này chắc chắn sẽ tiếp tục khi Việt Nam tiếp tục phát triển lực lượng lao động, củng cố hạ tầng năng lượng, hạ tầng công nghệ thông tin - từ mạng 5G, tiến tới 6G trong tương lai, đến hệ thống cáp quang biển - và bảo đảm các hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông này an toàn, ổn định và bền vững. Đây đều là những bước đi quan trọng mà Việt Nam sẽ thực hiện trong tương lai, qua đó củng cố hơn nữa vai trò trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tôi tin rằng khi các công ty quốc tế đánh giá hệ sinh thái tại Việt Nam, họ sẽ ngày càng nhận thấy sức hấp dẫn của nó. Ví dụ, chúng ta có thể thấy các trung tâm dữ liệu được mở ra nhờ sự dẫn dắt của các nhà đầu tư nước ngoài. Tôi rất phấn khởi khi chứng kiến những thay đổi này diễn ra theo thời gian thực. Đó không phải là một viễn cảnh xa vời, mà đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta. Và điều đó có được nhờ sự lãnh đạo của Việt Nam và tầm nhìn của các nhà lãnh đạo Việt Nam về tầm quan trọng của chuyển đổi số cũng như vai trò của khu vực tư nhân.

Chúng ta đã thấy các nghị định mới ban hành, việc tái cơ cấu bộ máy chính phủ, sắp xếp lại các đơn vị hành chính. Tất cả những điều này, theo tôi, sẽ giúp tăng cường hiệu quả, khiến Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Đây là điều khiến chúng tôi phấn khởi, và tôi biết rằng các công ty cũng như các trường đại học của chúng tôi cũng rất vui mừng trước viễn cảnh này.

PV: Trở lại với Đại sứ Hà Kim Ngọc, tiếp tục câu chuyện vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung cứng toàn cầu và trong tổng thể nền kinh tế khu vực. Nếu nhìn lại 30 năm qua, thì theo ông, đâu là những trụ cột ổn định cho thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ?

Đại sứ Hà Kim Ngọc: “Trước hết, quan hệ chính trị tích cực nó tạo môi trường chung thuận lợi cho kinh tế thương mại đầu tư phát triển và thứ hai nữa hai nước chúng ta có Hiệp định thương mại song phương ký năm 2000 và sau đó Việt Nam gia nhập WTO. Đây là những khuôn khổ pháp lý rất quan trọng cho kinh tế thương mại đẩu tư phát triển. Thứ ba là tính chất hỗ trợ và bổ sung cho nhau giữa hai nền kinh tế, tức là cùng đem lại lợi ích cho nhau. Đây là điều rất quan trọng. Thứ tư là như Đại sứ Marc Knapper cũng vừa nói: doanh nghiệp của hai nước rất chủ động, tích cực thúc đẩy hợp tác và họ đã tạo ra nền tảng, động lực hợp tác trong các lĩnh vực này. Điểm thứ 5, hai nước chúng ta cũng đã có những cơ chế, khuôn khổ để hai nước có thể trao đổi bàn bạc khi có những vấn đề khác biệt hay phát sinh để cùng tìm ra những giải pháp hai bên có thể chấp nhận được. Và điều cuối cùng rất quan trọng, đó là cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ là một cầu nối rất quan trọng để thúc đẩy giao thương giữa hai nước.  

PV: Theo Đại sứ Hà Kim Ngọc, vậy trụ cột kinh tế-thương mại sẽ thúc đẩy “hình mẫu quan hệ quốc tế hòa bình- hòa giải” Việt Nam-Hoa Kỳ trong tương lai như thế nào - như ý tưởng cựu Tổng thống Jie Biden đã nhắc tới trong phiên họp Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 24/9/2023?

Đại sứ Hà Kim Ngọc: Trước hết chúng ta có một câu hỏi: tại sao có xung đột và chiến tranh? Đó là do mâu thuẫn về lợi ích, về quyền lực hay do sự nghi kỵ lẫn nhau, không tin tưởng nhau. Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam-Hoa Kỳ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và người dân của hai nước;p góp phần tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau và như Đại sứ marc Knapper vùa đề cập chúng ta lại có những nguyên tắc trong quan hệ: tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thể chế chính trị của nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế....Điều rất quan trọng là khi có những bất đồng, chúng ta dùng thương lượng hòa bình, dùng đối thoại xây dựng để giải quyết nó. Với những ý nghĩa như vậy, trụ cột thương mại thực sự là nhịp cầu, là chất keo gắn kết hai dân tộc và nó đóng góp vào việc tăng cường tình hữu nghị sự hiểu biết lẫn nhau và tin cậy lẫn nhau và đó cũng là ý nghĩa về hình mẫu của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ trong bối cảnh quan hệ quốc tế hiện nay.

PV: Thưa Đại sứ Knapper, trong một thế giới địa chính trị biến động như hiện nay, hai nước chúng ta - sẽ gieo những hạt mầm mới cho tương lai như thế nào để kiến tạo hòa bình- vì tương lai, hợp tác, phát triển thịnh vượng giữa hai nước?

Đại sứ Marc Knapper: Tôi cho rằng, đối với quan hệ giữa hai quốc gia chúng ta, trước hết không bao giờ quên quá khứ, nhưng cũng không để quá khứ che mờ những nỗ lực to lớn ở hiện tại nhằm hướng tới tương lai. Chúng ta sẽ tiếp tục nỗ lực giải quyết các vấn đề chiến tranh để lại, đồng thời tập trung nguồn lực để thúc đẩy hợp tác giáo dục, công nghệ cao, đổi mới sáng tạo. Những điều này sẽ thực sự trở thành dấu ấn của mối quan hệ trong tương lai.

Tôi thấy rõ những “cây cầu” sẽ được xây dựng khi ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ học tập, khi ngày càng có nhiều người Mỹ đến Việt Nam, cũng như khi chúng ta mở rộng hợp tác văn hóa. Việt Nam có nền văn hóa đặc sắc. Nhiều người đã biết đến ẩm thực Việt Nam, cảnh đẹp nổi tiếng của Việt Nam như một điểm đến du lịch, nhưng tôi muốn nhiều người Mỹ biết thêm về nền văn học phong phú của Việt Nam, hiểu thêm về điện ảnh Việt Nam, âm nhạc Việt Nam. Gần đây, chúng tôi đã tổ chức một sự kiện tại Las Vegas, nơi nhóm Anh Trai Say Hi biểu diễn trong hai đêm. Tôi đã có dịp xem họ tập luyện và biểu diễn, và tôi nhận thấy đây là một nhóm nghệ sĩ trẻ đầy tài năng. Tôi nghĩ họ chính là lớp tiên phong cho điều mà chúng ta có thể gọi là V-pop, giống như thế giới có K-pop, và bây giờ chúng ta có V-pop.

Tôi tin rằng Việt Nam có đủ nguồn lực, tài năng và truyền thống văn hóa phong phú để làm được điều này, để trở thành một sức mạnh văn hóa quan trọng tiếp theo trên toàn cầu. Tôi đặt nhiều kỳ vọng vào điều đó và chắc chắn sẽ làm tất cả những gì có thể để hỗ trợ quảng bá. Đây chính là những điều sẽ gieo mầm cho hòa bình, thịnh vượng và sự thấu hiểu trong tương lai giữa hai nước chúng ta.

PV: Một câu hỏi cuối cùng thưa 2 vị Đại sứ, chúng ta đang chứng kiến những khoảnh khắc quan trọng trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Nếu để nói một câu ngắn gọn “Kiến tạo hòa bình- vì tương lai, hợp tác, phát triển thịnh vượng” giữa hai nước, các vị khách mời sẽ nói gì?

Đại sứ Hà Kim Ngọc: “Tôi nghĩ rằng hai nước chúng ta đang đứng trước những cơ hội chưa từng có để tăng cường quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện. Chúng ta cần tận dụng cơ hội đó để mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước không chỉ trước mắt và cả lâu dài; đồng thời đóng góp vào duy trì hòa bình ổn định và phát triển ở khu vực và thế giới. Nhân đây, tôi cũng xin cảm ơn ngài Đại sứ Marc Knapper vì những đóng góp to lớn của ngài cũng như Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ vào những tiến trình phát triển quan hệ vừa qua. Tôi rất xúc động khi ngài đã thay mặt cho chính quyền Tổng thống Donald Trump hiện nay khẳng định lại nước Mỹ mong muốn một Việt Nam độc lập, thịnh vượng và phát triển

Đại sứ Knapper: Cảm ơn bạn. Trước hết, thật khó để có thể diễn đạt ấn tượng như Đại sứ Hà Kim Ngọc. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến những gì ngài Đại sứ đã làm trong nhiều năm qua để thúc đẩy mối quan hệ giữa hai quốc gia chúng ta, bao gồm việc nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện cách đây hai năm, một bước tiến mà tôi cho rằng có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Thông thường, khi hai nước tổ chức hội nghị thượng đỉnh, họ sẽ công bố một văn kiện như tuyên bố chung. Rất nhiều công sức được đầu tư vào đó, nhưng rồi tài liệu ấy chỉ được đặt lên kệ và ít được chú ý. Trong trường hợp Việt Nam-Hoa Kỳ thì khác: quan hệ đối tác này thực sự sống động. Tuyên bố chung và kế hoạch hành động mà chúng ta cùng nhau xây dựng vẫn đang là ngôi sao dẫn đường cho mối quan hệ hai nước. Điều này có ý nghĩa lớn vì nó cho thấy chúng ta coi trọng quan hệ đối tác này đến mức nào, và đã nỗ lực ra sao để hiện thực hóa việc nâng cấp quan hệ. Tôi tin rằng đây sẽ là lộ trình cho chúng ta trong chặng đường sắp tới, bởi trong đó chứa đựng rất nhiều nội dung quan trọng về việc thúc đẩy thịnh vượng chung, củng cố an ninh chung thông qua quan hệ kinh tế, thương mại, hợp tác an ninh, thúc đẩy giáo dục, cũng như hợp tác trong các lĩnh vực năng lượng và khoáng sản chiến lược. Có quá nhiều lĩnh vực mà hai quốc gia chúng ta đang cùng nhau hợp tác.

Đôi khi thật dễ quên rằng mới chỉ 30 năm trước thôi, chúng ta gần như chưa có gì. Hãy nhìn xem hôm nay chúng ta đang ở đâu. Điều đó phản ánh bản lĩnh chính trị, ý chí chính trị của các nhà lãnh đạo, cũng như tấm lòng rộng mở của nhân dân và đặc biệt là các cựu chiến binh hai nước.

Tôi cũng muốn nhắc lại điều mà Đại sứ Ngọc đã đề cập về hợp tác y tế. Vào thời điểm dịch COVID, khi tôi đang ở Hoa Kỳ, trong lúc chúng tôi cần nhất, Việt Nam đã kịp thời hỗ trợ, cung cấp thiết bị bảo hộ cá nhân như ngài Đại sứ vừa nói. Sau đó, chúng tôi đã có thể đáp lại bằng việc cung cấp vaccine. Tình hữu nghị được vun đắp qua những năm tháng đó là vô cùng quý giá, và là điều mà chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng. Chúng ta không thể coi đó là điều hiển nhiên, mà phải luôn tiếp tục vun đắp và phát triển.

Tôi tin tưởng rằng nhân dân và chính phủ hai nước sẽ tiếp tục nỗ lực, tiếp tục hành trình này cùng nhau, bởi chúng ta có nhiều lợi ích chung về an ninh và thịnh vượng.

PV: Trân trọng cảm ơn các vị Đại sứ.

Từ những nhận định và chia sẻ của các vị khách mời, có thể nói 30 năm qua, Việt Nan và Hoa kỳ đã cùng nhau gác lại quá khứ, hướng tới giai đoạn đẹp nhất của hợp tác, hòa bình vì sự phát triển và những điều này có được là nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ của cả hai phía; sự thấu hiểu và lòng tin của nhân dân hai nước.

 Với nền tảng hợp tác trong 30 năm qua, hai quốc gia sẽ tiếp tục mở rộng hơn nữa quan hệ trên các lĩnh vực và cùng nhau chung tay ứng phó với những thách thức toàn cầu, cùng vun đắp một tương lai tươi sáng hơn.

 Một lần nữa xin cảm ơn Đại sứ Marc Knapper và Đại sứ Hà Kim Ngọc đã tham gia chương trình.