Bền vững từ chiến lược – Nâng cao năng lực quốc gia
VOV1 - Mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam đến năm 2030 bao gồm việc duy trì tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, cũng như đảm bảo mọi người dân được hưởng thụ thành quả của phát triển một cách bình đẳng.

Cụ thể, Việt Nam tập trung vào 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc, với các mục tiêu chiến lược về xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường và xây dựng thể chế vững mạnh.

Dưới góc độ chiến lược quốc gia, phát triển bền vững không chỉ là một mục tiêu dài hạn mà còn là phương thức nâng cao năng lực tổng thể của quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp. Nhiều chuyên gia cho rằng, việc nâng cao năng lực quốc gia được triển khai đồng bộ trên nhiều trụ cột như: phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, và xây dựng nền kinh tế xanh, tuần hoàn và đặc biệt phải hoàn thiện thể chế cho phát triển bền vững.

TS. Nguyễn Thế Khang, Trường Đại học Tài chính- Marketing (UFM) cho rằng, thời gian qua, Việt Nam đã bám sát 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc. Các mục tiêu đó bao trùm các vấn đề: phát triển kinh tế bền vững; năng lượng, tài nguyên bền vững và vấn đề phát triển xã hội bền vững. Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong mục tiêu phát triển hạ tầng, xóa nghèo bền vững, phổ cập giáo dục. Trong đó, việc miễn học phí đang được triển khai là những bước đi quan trọng để bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục cho mọi người dân. Trong các mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế, cả nước đang nỗ lực triển khai kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh. Ở đó, các doanh nghiệp từng bước đã xây dựng báo cáo phát triển bền vững, thể hiện trách nhiệm với người tiêu dùng, với môi trường. TS. Nguyễn Thế Khang nêu ý kiến: 

"Sắp tới đây, trong các nghị quyết của Đảng nên bám vào những mục tiêu mà Việt Nam chưa đạt được để tiếp tục xây dựng theo hướng bền vững, căn cứ vào các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Nhà nước cần dần dần đưa vào luật những vấn đề liên quan đến chuyển đổi, đổi mới sáng tạo. Những doanh nghiệp áp dụng đổi mới sáng tạo, khoa học kỹ thuật theo hướng phát triển bền vững thì được hưởng những ưu đãi về thuế…".

Cụ thể hóa các mục tiêu phát triển bền vững, nghiên cứu của nhóm TS. Trần Trung Kiên- Giám đốc Chương trình Thuế, Khoa Tài chính công, Đại học Kinh tế TP.HCM cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần chuyển đổi từ thuế bảo vệ môi trường hiện hành sang thuế carbon. Theo TS. Kiên, áp dụng thuế carbon là bước đi tất yếu để Việt Nam vừa tăng nguồn thu ngân sách bảo vệ môi trường, vừa tạo động lực buộc doanh nghiệp đổi mới công nghệ, giảm phát thải, tiến tới phát triển bền vững trong kỷ nguyên số.

Để thực hiện được, đầu tiên phải có chủ trương, có thể chế để xây dựng luật và lộ trình thực hiện, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Về lâu dài, nếu thuế carbon thay cho thuế bảo vệ môi trường thì sẽ tạo ra sự ổn định và minh bạch trong chính sách thuế, giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư đổi mới công nghệ. TS. Trần Trung Kiên đề nghị:

"Về lâu dài, cần chuyển đổi từ mô hình thuế môi trường sang thuế carbon, thay đổi cách tiếp cận, không trả lời cái gì bị đánh thuế mà phải trả lời doanh nghiệp sản xuất như thế nào thì bị đánh thuế. Tôi cho rằng như vậy công bằng và hiệu quả hơn. Người sản xuất nào trong quá trình sản xuất phát thải nhiều CO2 thì phải đóng thuế. Qua đó cũng khuyến khích doanh nghiệp cải tiến sản phẩm, sử dụng công nghệ tiên tiến, hạn chế phát thải, thân thiện hơn với môi trường".

Nhiều chuyên gia đề xuất, Nhà nước cần dần thể chế hóa các chính sách mới như thuế xanh, chi tiêu công xanh và các cơ chế hỗ trợ đổi mới sáng tạo, để bảo đảm khung pháp lý theo kịp xu thế toàn cầu.

Theo TS. Vũ Thành Tự Anh, Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright, thời gian gần đây, nhiều nghị quyết của Đảng đểu xác định rõ các động lực của tăng trưởng, phát triển bền vững. Đó là, khoa học công nghệ; đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; kinh tế tư nhân song hành với FDI và doanh nghiệp nhà nước; phải chuyển đổi chuỗi giá trị, nâng cấp kỹ năng của người lao động và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ sở hạ tầng.

Tuy nhiên, quan trọng hơn là phải đẩy mạnh ở khâu thực thi thể chế, triển khai các chủ trương, chính sách, quy định vào thực tế để phát triển: "Thể chế là cơ sở hạ tầng mềm, còn các cơ sở hạ tầng cứng như điện, đường, cao tốc, sân bay, bến cảng, dữ liệu- cơ sở hạ tầng viễn thông, cơ sở hạ tầng dữ liệu, cơ sở hạ tầng thông tin… tất cả phải hỗ trợ nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là làm sao chuyển được từ các thiết kế chính sách đó được triển khai trên thực tế, điều này trước nay vẫn là nút thắt. Bởi vì rất nhiều chính sách của chúng ta, chiến lược là đúng, định hướng là đúng, chính sách là đúng, nhưng đến khi thực thi thì lại vướng". TS. Vũ Thành Tự Anh nói.

Các chuyên gia đề xuất, sắp tới dành nhiều thời lượng cho vấn đề tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế cho phát triển bền vững, trọng tâm là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, nhằm tháo gỡ kịp thời, dứt điểm các nút thắt, điểm nghẽn. Từ đó thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm sự đồng bộ, hài hoà giữa tăng trưởng và phát triển, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới./.

 

Xem trên các nền tảng khác

Bình luận