Chuyện về những nỗ lực giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế xanh
VOV1 - “Quản lý rừng bền vững góp phần phát triển nền kinh tế xanh, giảm phát thải; từ ng bước hiện thực hóa mục tiêu Việt Nam đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050”. Đó là mục tiêu dự án “Nhân rộng quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng tại Việt Nam” (dự án SFM) do Chính phủ CHLB Đức tài trợ.

   

     Thông qua Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Liên bang Đức (BMZ) và Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ), dự án triển khai trong 3 năm từ 2022-2025, đạt được nhiều thành công, trong đó có việc nâng cao nhận thức của người dân Gia Lai (Bình Định cũ) trong bảo vệ rừng; giúp người lao động có thêm thu nhập; ngăn chặn BĐKH....

     Niềm vui từ một dự án

        “Sau vài năm, gia đình tôi đã học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm về cách chăm sóc các loại cây trồng. Nhờ sự hướng dẫn của công ty, việc đi thăm rẫy, thăm cây giống, được hướng dẫn tỉa cây cho nên diện tích trồng cây cũng rộng hơn và việc chăm sóc cây cũng thuận tiện hơn. Bên cạnh đó cũng có thêm những nguồn thu nhập từ bảo vệ rừng”, chị Đinh Thu Ngân, đồng bào dân tộc Bana ở thôn 2 xã Vĩnh Sơn, tỉnh Gia Lai (Bình Định cũ) cho biết.

     Còn anh Đinh Văn Giới, dân tộc Bana ở thôn 3, xã Vĩnh Sơn, tỉnh Gia Lai (Bình Định cũ) cho biết “cái được” mà dự án Nhân rộng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tại Việt Nam mang lại cho anh, đó chính là cách quản lý bảo vệ rừng bền vững, có thêm nhiều kỹ thuật mới về chăm sóc rừng, bảo vệ rừng”...             

     Không chỉ có anh Giới và chị Ngân, còn rất nhiều người dân tỉnh Gia Lai được hưởng lợi từ dự án do chính phủ Đức tài trợ.

      Được triển khai từ 2022-2025 trên 3 tỉnh Quảng Trị, Gia Lai (Bình Định cũ) và Đắk Lắk (Phú Yên cũ), dự án hướng tới những thay đổi lớn trong cách thức quản lý rừng của Việt Nam. Theo đó, giúp các chủ rừng chuyển đổi từ mô hình trồng rừng chu kỳ ngắn truyền thống sang chu kỳ dài hơn, tăng tính đa dạng loài và tập trung sản xuất gỗ xẻ chất lượng cao.

      Việt Nam hiện là nước xuất khẩu sản phẩm gỗ lớn nhất ở Đông Nam Á. Kinh tế rừng trồng chủ yếu dựa vào thâm canh rừng trồng chu kỳ ngắn để sản xuất dăm gỗ làm nguyên liệu sinh khối. Nói một cách khác, lượng gỗ xẻ Việt Nam phải nhập khẩu từ bên ngoài chiếm 60% tổng lượng gỗ nhập khẩu do ngàn sản xuất gỗ nội địa chưa thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng gia tăng đối với gỗ lớn được sản xuất theo phương thức bền vững.

     Do đó, sau 3 năm triển khai, dự án đã từng bước tạo ra những thay đổi trong phát triển và quản lý rừng ở các tỉnh Quảng Trị, Gia Lai (Bình Định cũ) và Đắk Lắk (Phú Yên cũ). Các chủ rừng tham gia dự án rừng đã thiết lập 48 ha rừng làm điểm trình diễn quản lý bền vững và mở rộng, áp dụng lên 1.685 ha rừng trồng. Bởi mô hình rừng gỗ lớn có giá trị kinh tế cao không chỉ mang lại lợi nhuận cao hơn cho chủ rừng mà còn tạo ra lợi ích tích cực cho đa dạng sinh học, khí hậu và cộng đồng.

    Những “mục tiêu kép” thúc đẩy nền kinh tế xanh

      Ông Hồ Văn Hể, Giám đốc Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn, một trong hai đơn vị thụ hưởng dự án cho biết: Việc chuyển đổi sang mô hình rừng gỗ lớn là bước đi chiến lược. Bởi không chỉ nâng cao giá trị kinh tế dài hạn cho rừng, định hướng này còn phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững quốc gia mà công ty đang theo đuổi.  “Về mặt sinh thái, chúng tôi đã trồng Lim, nên không có hiện tượng đất trống. Dù đã khai thác Keo rồi, nhưng trên diện tích đấy vẫn có cây ban địa, đảm bảo phòng hộ, hệ sinh thái, hạn chế các tác động về khí hậu. Cây đã sinh trưởng phát triển hiệu qua chúng tôi sẽ nhân rộng mô hình này”. Ông Hồ Văn Hề nói “ Mục tiêu trồng cây bản địa này để đánh giá xem cây bản địa có sinh trưởng được dưới tán rừng gỗ Lớn không? Khai thác xong Keo còn cây bản địa. Chu kỳ cây bàn địa kéo dài 30-40 năm cho nên bảo vệ được môi trường”.

         Về hiệu quả kinh tế, ông Ngô Văn Tỉnh, Giám đốc Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn, một trong 2 đơn vị thụ hưởng dự án, cho rằng, sau 3 năm triển khai, dự án cũng đã góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động. Ông Tỉnh nêu ví dụ nếu như năm 2020, thu nhập bình quân lao động của công ty bình quân đạt 8,5 triệu đồng /tháng, thì đến năm 2022, lên 9 triệu đồng/tháng. 2023 lên 9,2 triệu đồng, năm 2024 lên 9,5. Năm nay mặc dù kinh tế khó khăn nhưng theo ông Tỉnh, thu nhập người lao động cũng sẽ tăng thêm mấy % có nghĩa là hơn 9,5 triệu đồng/người/tháng. “Rừng gỗ lớn của chúng tôi đều có chứng chỉ FSC rồi. Gia Lai (Bình Định cũ) khu công nghiệp chế biến gỗ là thủ phủ thứ 2 sau Bình Dương thôi, rất nhiều nhà máy chế biến. Gỗ chúng tôi có chứng chỉ rồi thì không có đủ nguồn để bán thôi”.

     

        Theo thống kê, hiện nay, rừng che phủ 42,02% diện tích nước ta và đóng vai trò quan trọng như một bể hấp thụ các-bon tự nhiên, góp phần vào mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam vào năm 2050. Tuy nhiên, chất lượng rừng Việt Nam nhìn chung vẫn còn thấp và tính đa dạng loài còn hạn chế. Rừng cũng đang chịu nhiều rủi ro nghiêm trọng như thiệt hại do gió bão,sâu bệnh hại, khô hạn, cháy rừng,… vốn ngày càng trầm trọng hơn bởi tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.

      Dự án Nhân rộng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng do chính phủ Đức tài trợ đã giúp nhiều tỉnh, địa phương tại Việt Nam thực hiện được “các mục tiêu kép”. Đó không chỉ là những thay đổi lớn trong cách thức quản lý rừng; là việc nâng cao hơn nữa ý thức của người dân trong việc bảo vệ rừng, mà còn giúp Việt Nam xây dựng một nền kinh tế xanh tuần hoàn. Việc quản lý rừng bền vững với chu kỳ trồng rừng dài ra sẽ khiến rừng trở thành 'bể chứa' carbon tự nhiên, giúp Việt Nam đạt mục tiêu tổng lượng phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050".

      Bà Carina van Weelden, Cán bộ quản lý thực hiện Dự án của GIZ Việt Nam cho biết các dự án lâm nghiệp có tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính rất đáng kể. Những mô hình trình diễn này cho thấy quản lý rừng bền vững có thể mang lại đồng thời lợi ích về khí hậu và kinh tế. “Trong khuôn khổ dự án, chúng tôi luôn hỗ trợ cho các chủ rừng thực hiện tín chỉ các-bon. Chúng tôi cũng đã hỗ trợ Công ty Sông Kôn và công ty Quy Nhơn công tác cải thiện quản lý rừng”. Bà Carina van Weelden phân tích.

“Chúng ta so sánh với quản lý rừng theo phương pháp canh tác thông thường truyền thống với chu kỳ 5 năm- với một chu kỳ đối chứng là 11 năm, thì nó sẽ có khác biệt như thế nào?. Theo nghiên cứu, chúng ta chuyển từ chu kỳ gỗ nhỏ 5 năm sang một chu kỳ dài hơn- chu kỳ gỗ lớn thì nó sẽ mang lại thêm nhiều lợi ích thiết thực. Ngoài việc tăng giá trị- giải pháp này ước tính còn gia tăng hấp thụ và lưu trữ  khoảng 4,2 tấn các-bon, mang lại những lợi ích khác về môi trường”.

        Theo ông Nguyễn Danh Đàn, Phó Giám đốc Ban quản lý dự án SFM Trung ương, Việt Nam đang định hướng chuyển đổi sang quản lý rừng bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu và nâng cao tính đa dạng loài, chu kỳ trồng rừng dài hơn và sản xuất gỗ xẻ. Từ đó, Việt Nam thiết lập các điều kiện về mặt pháp luật và thể chế cần thiết để chuyển dịch sang quản lý rừng bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường năng lực cho các chủ thể liên quan trong ngành lâm nghiệp để chuyển đổi sang quản lý rừng bền vững. Đây cũng là một trong những mục tiêu quan trọng mà

Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ) sẽ tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam trong thời gian tới, cùng Việt nam xây dựng một “tương lai xanh, một nền kinh tế xanh” thịnh vượng và bền vững./.

Xem trên các nền tảng khác

Bình luận